Sự thực khi chúng ta đột ngột phải lòng hay nặng duyên tình trong đời này với một ai đó, có thể không phải đơn giản xuất phát từ những lý do từ kiếp này….
Phật Gia cho rằng: những người gặp nhau ở kiếp này là do duyên nợ từ kiếp trước, vợ chồng cũng vậy. Sau đây là câu chuyện về nhân duyên vợ chồng được ghi lại trong cuốn “Duyệt vi thảo đường bút ký” của tác giả Kỷ Hiểu Lam sẽ giúp ta hiểu hơn về điều này.
1. Vợ chồng đến với nhau đều do nhân duyên, hãy biết trân quý mối nhân duyên này
Ngày xưa, có hai vợ chồng vị quan trẻ tuổi ở Thương Châu tài giỏi nhưng sống không hạnh phúc. Người vợ vốn tính kỳ quái và ngang bướng khiến tình cảm vợ chồng chuyển biến ngày càng xấu hơn. Sau một thời gian cuộc sống bất hòa kéo dài, người vợ buồn chán trong lòng và sinh ra tâm bệnh.
Một hôm, có một vị ni cô đạo hạnh khiêm cung đi qua Thương Châu. Người vợ liền đến gặp bái kiến vị ni cô, nàng hỏi: “Thưa ni cô, cho tôi hỏi một điều ạ! Mối quan hệ vợ chồng liệu có phải là nhân quả không? Vì sao cuộc sống vợ chồng tôi lại không được hòa thuận, êm ấm?”
Vị ni cô từ tốn nói: “Tôi không phải quan lại dưới âm phủ nên không thể tra xét sổ sách để biết được nhân quả của vợ chồng thí chủ. Tôi lại càng không phải Bồ Tát mà nhìn thấu được nhân quả trong quá khứ, hiện tại và tương lai của thí chủ. Nhưng đối với đạo lý nhân quả duyên phận thì tôi có thể giải thích được cho thí chủ như sau:
Nhân duyên vợ chồng không có đôi nào là vô duyên vô cớ mà kết hợp. Một số vợ chồng do ân tình của kiếp trước mà gặp nhau nên cuộc sống kiếp này vui vẻ tốt đẹp. Một số khác lại là oán giận từ kiếp trước nên cuộc sống kiếp này cũng oán giận, phiền não và đau khổ. Cũng có những đôi là vì cả ân và oán mà kết hợp, khi đó họ sẽ có cơ hội hoàn trả ân oán cho nhau.
Như lời thí chủ kể thì mối quan hệ của vợ chồng thí chủ hẳn là oán giận từ kiếp trước. Đây là ông trời định sẵn, không phải theo ý muốn của con người.
Tuy nhiên nếu con người biết sám hối, tu sửa bản thân, ăn năn hối lỗi sẽ cải biến được tình thế. Chỉ cần người làm vợ là thí chủ cố gắng từ bỏ tính hiếu thắng, chế ngự sự cao ngạo, nhẫn nhịn và không tranh giành với chồng thì tự nhiên mâu thuẫn giảm dần.
Cố gắng làm tròn bổn phận của mình trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ đôi bên, hòa thuận với anh chị em và khoan dung với mọi người… nếu thí chủ làm được như vậy thì chắc hẳn tình cảm của vợ chồng thí chủ sẽ được cải biến”.
Người vợ sau khi nghe xong liền không để tâm trách móc và tìm lỗi của ai nữa mà cố gắng hành theo lời khuyên của ni cô. Quả nhiên sau một gian, tình cảm của hai vợ chồng họ đã trở nên tốt hơn.
Câu chuyện thứ 2: Duyên nợ vợ chồng bắt đầu từ kiếp tu hành 1000 năm trước
Tôi và vợ tôi không phải là người cùng một tỉnh, khi tôi chán nản buồn bã đã quen được cô ấy, sau này trải qua bao nhiêu trở ngại, chúng tôi mới kết thành vợ chồng, thời gian đó chúng tôi đã vượt biết bao khó khăn. Trong tâm tôi luôn cảm thấy mình nợ cô ấy rất nhiều, cô ấy có tính hay dựa dẫm vào tôi, nếu một ngày không nhìn thấy tôi thì tâm thần bất an, đứng ngồi không yên.
Tôi khai mở một số ký ức ở những đời trước, vợ tôi cũng vì thế mà thường nói với tôi: “Kiếp trước em và anh rốt cuộc là có quan hệ nhân duyên thế nào? Anh không thể xem một chút sao?” Tôi nói với cô ấy rằng điều này không thể cưỡng cầu được.
Vào một buổi tối, tôi lại một lần nữa vượt qua không gian và thời gian của luân hồi, trở về hơn một nghìn năm trước, nhìn thấy được những ân oán giữa tôi và vợ.
Trong kiếp đó, sau nhiều năm tôi xuống núi vân du, khi trở về chùa Vĩnh Hoa thì sư phụ đã viên tịch rồi, bởi vậy chúng tăng trong chùa chọn tôi lên làm trụ trì. Không lâu sau tôi bắt đầu lập đàn giảng kinh tuyên dương Phật Pháp, khi đó tôi chưa đến 30 tuổi, những người thường họ hay gọi đùa tôi là “tiểu phương trượng”.
Cùng với ảnh hưởng được mở rộng, hương hỏa trong chùa càng ngày càng thịnh vượng; khách hành hương, các tín chúng, những người hỏi đạo đến tôi đều không cự tuyệt.
Một hôm, một nhà giàu họ Lý có việc đi qua chùa, ông dẫn theo người nhà, tiện đường liền lên núi thắp hương kính Phật, khi uống trà nói chuyện thì biết được cả nhà ông đều tín phụng Phật Pháp, hay làm việc thiện, vì nghe nói tôi tu luyện trong Phật Pháp đạt được trình độ nhất định nên ghé vào thăm, thuận tiện cho chúng tăng một ít đồ cúng. Đi cùng còn có con gái của ông, dáng vẻ khoảng 16~17 tuổi, dung mạo đoan trang, cô nhìn thấy những câu kệ tôi viết liền cầm lên xem hồi lâu, rồi chợt hỏi chuyện một cách tò mò, tôi khiêm tốn trả lời từng câu hỏi.
Không lâu sau thì họ phải lên đường, khi từ biệt tôi mới phát hiện ánh mắt của Lý tiểu thư không rời khỏi tôi, ánh mắt đó từ trước đến giờ tôi chưa từng tiếp xúc qua. Bỗng nhiên tôi thấy chấn động, tâm tư suy nghĩ bất định, tự nhủ: “Ta tu hành từ nhỏ đến nay, tự nghĩ định lực bản thân không hề nông cạn, làm sao trước nữ sắc lại thất bại thế này?” Từ hôm đó, nhiều ngày khi đả tọa không thể nhập định được, những suy nghĩ bất chính liên tiếp đến; dần dần phải qua thời gian dài mới có thể chế phục được tâm ma này, từ đó tu luyện trong Phật Pháp không dám có chút buông lơi nữa.
Một năm sau, dưới núi có người vội vã đưa đến một bức thư, thì ra là thư của Lý viên ngoại, tôi vừa mở ra xem mồ hôi lạnh liền toát ra, vội vàng niệm Phật hiệu. Trong thư viết con gái Lý viên ngoại từ sau khi ở chùa trở về, không lâu sau thì ngã bệnh, không cách nào chữa được, tìm không ra nguyên nhân căn bệnh, tiểu thư không nói, người nhà cũng không có cách nào. Sau này mới ít nhiều biết được là vì tương tư tôi nên thành bệnh, nghĩ tôi là người trong Phật môn, chuyện này chẳng phải trò cười hay sao? Nhưng không biết làm thế nào vì sức khỏe con gái ông ngày càng nguy kịch, chỉ còn cách mời tôi từ bi xuống núi thăm con gái ông.
Việc cứu người là khẩn cấp, do đó tôi vội vàng thu xếp công việc và đồ đạc rồi theo người đưa thư xuống núi. Sau nhiều ngày thì đến được Lý phủ. Lý viên ngoại trong lòng nóng như lửa đốt, nhìn thấy tôi đến bèn vui mừng ra đón, rồi dẫn tôi vào trong nhà. Dường như đã có người sớm báo cho tiểu thư, viên ngoại ở bên ngoài gọi tiểu thư: “Con gái, con xem ai đến này”. Tiểu thư từ từ ngồi dậy khỏi giường, nét mặt ửng hồng, khe khẽ hỏi tôi: “Cao tăng, ngài đã biết rồi sao?” Lời nói có vẻ mệt mỏi, cơ thể biểu lộ ra vẻ yếu ớt.
Tôi vội vàng thi lễ, ra hiệu cô ấy không nên cử động nhiều, sau đó tôi giảng giải về Phật Pháp, muốn cô ấy vượt qua chướng ngại tình cảm nam nữ, nhưng cô ấy tựa như nghe mà không nghe, lúc sau hỏi tôi: “Cao tăng, kiếp này ngài và tôi không thể đến được với nhau ư?”
Tôi liền lập chưởng nói: “Đúng vậy, tuyệt đối không thể được!”
Nước mắt cô gái lăn dài trên má, một hồi lâu sau cô ấy chỉ vào gói đồ trên bàn và nói: “Hôm nay gặp nhau, không biết khi nào mới lại tương phùng, tôi tặng ngài một bó tơ lụa làm đồ cung dưỡng, mong cao tăng nhận cho”.
Tôi ấp úng nói: “Cái này…” Dáng vẻ của cô ấy làm tôi không nỡ cự tuyệt: “Vậy bần tăng xin nhận, cảm tạ nữ thí chủ, bần tăng xin cáo từ, xin nữ thí chủ an tâm nghỉ ngơi dưỡng bệnh, đọc nhiều kinh Phật, sức khỏe sẽ sớm hồi phục”.
Thấy cô ấy lặng im, tôi liền quay người bước ra khỏi phòng. “Cao tăng xin hãy thong thả”, tiểu thư ở sau lưng tôi gọi.
Tôi quay người lại: “Nữ thí chủ vẫn còn việc gì muốn nói hay sao?”
Ánh mắt cô gái lộ vẻ kỳ lạ: “Nếu đời này ngài tu không thành thì sao?”
Tôi đáp lời cô ấy: “Nếu đời này ta không tu thành, đời sau vẫn tiếp tục làm tăng”.
“Nếu đã như vậy, dải lụa này xin làm tín vật, kiếp sau tôi lại lên chùa tìm ngài”. Nói xong tiểu thư quay người đi vào trong.
Trở về chùa được hai năm, nghe nói sau khi tôi rời khỏi đó không lâu, Lý tiểu thư đã qua đời trong sầu não. Việc này đã khuấy động cả một đời của tôi, quả nhiên trong kiếp đó tôi tu không thành.
Chớp mắt đã đến đời sau, tôi quả nhiên lại chuyển sinh thành hòa thượng, sau đó ở chùa Vĩnh Hoa tiếp tục làm trụ trì. Thấm thoắt mấy năm trôi qua, đã lại đến trung thu, ngày thứ hai là ngày hương hội, buổi tối khi tôi đả tọa nhập định, bỗng nhiên trước mắt hiện lên một khoảng không rõ ràng, rồi xuất hiện công năng nhìn được tương lai quá khứ; tôi biết được mình là phương trượng tiền nhiệm chuyển thế và cũng biết được chuyện gì sắp xảy ra, sau khi xuất định chỉ biết thở dài than rằng: “Định số! Đúng là định số!”.
Ngày hôm sau, người đến hành hương rất đông, đến trưa nghe thấy phía bên ngoài cổng chùa có tiếng truyền vào, trong tâm tôi máy động: “Đến rồi, cuối cùng cũng đã đến!” Lát sau, các khách tăng dẫn người có dáng vẻ là quan viên đi vào đại điện, lễ Phật xong ở trong phòng khách mời tôi tiếp đón.
Vị quan viên vừa thấy tôi liền nhìn kỹ trên dưới, rồi không ngừng gật đầu: “Quả đúng như thế, quả đúng như thế!”
Hai tay tôi hợp lại trước ngực: “Xin hỏi đại nhân từ đâu đến? Đến có việc gì?”
Người đó bỗng như giật mình tỉnh giấc, trả lời: “Ta đến từ Trường An, vì con gái mà đến quý tự tìm người”. Tôi nói: “Tìm người ư? Trường An cách Vĩnh Hoa tự cả trăm dặm, làm sao có người cô ấy cần tìm được?” Các khách tăng đều cảm thấy kỳ lạ.
“Là như vầy…” Người đó giải thích: “Ta có một cô con gái, nó giống như viên minh châu trong tay vợ chồng ta, chằng mấy chốc đã đến tuổi kết hôn, có rất nhiều người nó cũng thấy vừa mắt. Một hôm nó mơ thấy chồng mình là người nơi cửa Phật, hơn nữa kiếp trước từng có ước hẹn; cụ thể hiện giờ ở chùa nào, dáng vẻ ra làm sao, còn có tín vật làm chứng, nói rõ ràng mười mươi. Ta cũng là người tin Phật, mặc dù bán tín bán nghi, ta vẫn muốn đến trước để hỏi dò và nghe ngóng xem sao, không ngờ quả thật rất đúng với lời con gái nói, không sai chút nào”.
Các sư đệ bên cạnh nghe không lọt nữa, tức giận nói: “Vớ vẩn, phương trượng chúng tôi là cao tăng đắc đạo, sao lại có thể giống lời ông nói được chứ?”
Tôi đưa tay lên ra hiệu bảo họ đừng nói nữa, rồi đi vào nhà kho mở hòm gỗ của phương trượng tiền nhiệm để lại, lấy ra gói đồ để lâu đã bị bụi phủ kín, cảm xúc dâng trào. Sau đó trở lại phòng khách, đặt gói đồ lên bàn rồi nói với vị quan viên: “Đây chính là tín vật mà con gái ngài nói, đó là di vật của tổ sư”. Lúc này các tăng nhân trong chùa tụ lại ngày càng đông, có người chen vào trong phòng, đứng không được liền chen lên bên cửa sổ, chen nhau mà thở, hiếu kỳ chăm chú vào mọi việc xảy ra ở đây. Vị quan viên nói: “Vậy thì ngài hãy mở gói đồ đó ra xem xem”. Mọi người lần lượt hướng ánh mắt về phía tôi.
“Được rồi”. Tôi nhẹ nhàng mở gói đồ ra, quả nhiên là một bó vải lụa màu trắng, mọi người đều ngạc nhiên. Bỗng nhiên dải lụa đó phát ra ánh sáng nhạt, các tăng nhân cùng tụng niệm Phật hiệu, phủ phục xuống quỳ lạy. Lúc lâu sau, mọi người mới giật mình tỉnh lại, vị quan viên đó nói với tôi: “Nếu tất cả đều là sự thật, thì xin cao tăng thu xếp rồi cùng tôi lên đường vào phủ chọn ngày để cùng tiểu nữ hoàn thành hôn sự, con gái tôi kết hợp với ngài đúng là ‘trai tài gái sắc’”.
Cả đại điện bỗng chốc tĩnh lặng, mọi người điều tỏ ra vô cùng lo lắng. Tôi suy nghĩ một lúc rồi chỉnh lại tăng y, ngồi ngay ngắn trên chiếc bồ đoàn, tay lần chuỗi Phật châu niệm một đoạn dài Phật hiệu, nước mắt lăn xuống với dáng vẻ đau thương: “Là nợ nghiệp kiếp trước, làm ta hai đời không thể giải thoát được, đành đoạn dứt từ đây, đợi đến khi đắc lại chính Pháp vậy!” Nói xong tự mình làm tọa hóa mà rời đi (tọa thiền cho đến khi viên tịch).
Đây chính là quan hệ nhân duyên giữa tôi và vợ, trải qua luân hồi hàng nghìn năm, trong đời này chúng tôi đều sinh ra trong gia đình nghèo khó, nơi trần thế mênh mông này nối tiếp tiền duyên, mặc dù xa cách nghìn dặm nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đến với nhau, hơn nữa lại là duyên lành quy y Phật Pháp, buông bỏ tình, tiếp tục tu hành trong một pháp môn không cần xuất gia mà vẫn có thể tu thành…
Vậy mới biết, mọi sự trên đời đều là hai chữ nhân duyên…
Cuộc sống kiếp này lại tạo nên những mối vay nợ nối tiếp, kéo dài mối lương duyên vợ chồng của chính bạn vào kiếp sau. Ai nợ bạn và bạn nợ ai đều sẽ là vòng tuần hoàn của nhân quả, nảy sinh những cuộc gặp gỡ, mối lương duyên tiền định.
Duyên vợ chồng không phải ngẫu nhiên mà có, tất cả đều do chính chúng ta tạo dựng từ muôn kiếp trước. Hai người xa lạ đến với nhau rồi quyết định chung dựng gia đình phải trải qua biết bao duyên nợ từ kiếp trước, không đếm nổi bao nhiêu khó khăn và trắc trở. Vượt thời gian và không gian để trở thành định mệnh của đời nhau. Chính vì vậy, dù duyên đó là thiện hay ác đều đáng trân trọng, phúc hay họa là do những hành động của con người đối xử với nhau mà tạo thành nhân quả.
Vợ chồng vốn nghĩa trăm năm, những mối nhân duyên tiền định nối dài từ kiếp này qua kiếp khác, trọn vẹn những ân tình. Hãy sống sao cho không những trả hết nợ mà còn bồi đắp thêm những điều tốt lành, đừng phụ công vượt qua sinh tử mà tìm đến nhau.
Đăng Dũng biên tập