Hầu hết mọi người chỉ biết đến phù hiệu chữ Vạn (卍) kể từ sau Thế chiến thứ 2. Tuy nhiên, nó đã tồn tại ở Ấn Độ cổ đại và một số nền văn hóa cổ đại phương Tây từ ba nghìn năm trước, rốt cuộc phù hiệu chữ Vạn có ý nghĩa và ẩn chứa thiên cơ sâu sắc gì, không phải ai trong chúng ta cũng có thể thấu tỏ.
Biểu tượng của Giác Giả
Phù hiệu chữ Vạn (卍) đại biểu cho sự “thường chuyển không dừng”, giống như cối xay gió hoặc guồng nước, không ngừng xoay. Nó có thể quay theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ. Khi quay theo chiều kim đồng hồ, nó đại biểu cho năng lượng, sức mạnh và trí huệ của vũ trụ; khi quay ngược chiều kim đồng hồ, nó đại biểu cho sự từ bi. Chữ Vạn (卍) cũng đại biểu cho sự hài hòa của vũ trụ và khái niệm về sự cân bằng giữa hai cực.
Phù hiệu chữ Vạn (Swastika) là tiếng Phạn (tiếng Ấn Độ cổ đại), có ý nghĩa là “tự ngã chứng thực”. Nói cách khác, phù hiệu này tượng trưng cho sự hiểu biết của bản thân và là phù hiệu của những Bậc Giác Giả, tức là phù hiệu của Phật. Đây là lý do tại sao trong các tác phẩm nghệ thuật cổ đại, bạn có thể thường thấy phù hiệu chữ Vạn này trên ngực hoặc lòng bàn tay của Đức Phật.
Theo cách hiểu thông thường, chữ Swastika được ghép từ hai chữ “su” và “asati”. “Su” có nghĩa là “tốt lành” và “asati” có nghĩa là “tồn tại”. Việc ghép hai từ lại với nhau, cộng với hậu tố đằng sau, tạo thành chữ viết ngày nay – Swastika. Nếu cách nói này là đáng tin cậy, thì ý nghĩa bề mặt của phù hiệu chữ Vạn là “lòng tốt và đức hạnh sẽ tồn tại mãi mãi.”
Trong các nền văn hóa phương Tây, chẳng hạn như Hy Lạp, Celtic, Phần Lan và các nền văn hóa bản địa khác nhau, phù hiệu chữ Vạn cũng là một biểu tượng rất quan trọng. Người Saxon (người Saxon, người Tây Đức ở Đức) gọi là Fylfot; người Latinh gọi là Crux Gammata; ở Hy Lạp, mọi người gọi là Tetraskelion hoặc Gammadion; người Ấn Độ gọi là Om; ở Trung Quốc, người ta gọi là phù hiệu chữ Vạn. Chữ Vạn “万” thường được dùng để đại biểu cho vạn sự vạn vật trong vũ trụ.
Một khi nhìn thấy phù hiệu chữ Vạn, đặc biệt là ở Đức, nhiều người lầm tưởng rằng nó là biểu tượng của Đức Quốc xã, thậm chí bác bỏ và phản đối.
Tuy nhiên, phù hiệu chữ Vạn đã có lịch sử hàng chục nghìn năm và có ý nghĩa, tầm ảnh hưởng sâu sắc đến sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Gần đây, trên trang Minghui.com đã đăng tải một bài viết có tiêu đề: “Vẫy tay Đức Quốc xã”, giới thiệu về nguồn gốc của chữ Vạn, sự khác biệt cơ bản giữa chữ Vạn và biểu tượng của Đức Quốc xã, và ý nghĩa của chữ Vạn đối với sự phát triển trong tương lai của nhân loại.
Hitler gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai, sự tàn sát người Do Thái của Đức quốc xã là một nỗi đau khổ sâu sắc mà loài người vẫn không thể nào quên.
Chữ “Swastika là biểu tượng của Đức Quốc xã” do Hitler tạo ra vẫn khiến nhiều người bất ngờ.
Chữ Vạn có thực sự thuộc về Hitler và Đức Quốc xã?
Tuy nhiên, ngay cả khi Hitler sống đến ngày nay, ông ta chỉ mới 132 tuổi; và chữ Vạn đã tồn tại trong xã hội loài người ít nhất hàng chục nghìn năm.
Trong lịch sử 6.000 đến 10.000 năm, chữ Vạn truyền tải thông điệp gì? Dù ở phương Đông hay phương Tây, trong cung điện hay trong túp lều, tại sao chữ Vạn lại được đặc biệt ưa chuộng?
Đồ hình cát tường đã được nhân loại biết đến ít nhất sáu nghìn năm
Chữ Vạn (卍) được gọi là Srivatsa trong tiếng Phạn, Swastika trong tiếng Anh, chữ “Vạn” trong tiếng Trung và Manji trong tiếng Nhật. Nó có nghĩa là “Cát tường hải vân” trong tiếng Phạn cổ. Ví dụ, chữ Vạn trước ngực của Đức Phật chính là “Cát tường hải vân”. Đây là biểu tượng đại diện cho điềm lành và năng lượng tích cực của vũ trụ thường xuất hiện trong các nền văn minh cổ đại ở phương Đông và phương Tây.
Có người nói rằng, chữ Vạn sớm nhất được biết đến đã được phát hiện ở Ấn Độ và Trung Á vào khoảng 2.500 năm trước Công nguyên. Một nghiên cứu vào năm 1.933 chỉ ra rằng có thể vào năm 1.000 trước Công nguyên, chữ Vạn đã du nhập vào Hy Lạp từ Ấn Độ qua Ba Tư và Tiểu Á (Tây Á), sau đó vào Ý đến Đức.
Ở Đức, Bảo tàng Tây Berlin có một bộ sưu tập các Tấm Samarra được khai quật ở Iraq. Các nhà khảo cổ học tin rằng niên đại của món đồ gốm này là khoảng 5.000 năm trước Công nguyên, và có một “chữ Vạn” ở trung tâm của chiếc đĩa khoảng 7.000 năm trước.
Ở Pháp, chiếc bát gốm Lưỡng Hà được cất giữ trong bảo tàng Louvre. Chiếc bát gốm 6.000 năm tuổi này cũng được khắc hình chữ Vạn.
“Mesopotamia” là tên của vùng Lưỡng Hà ở Hy Lạp cổ đại. “Hai con sông” đề cập đến sông Euphrates và sông Tigris. Nền văn minh cổ đại xuất hiện và phát triển trên đồng bằng Lưỡng Hà nằm giữa hai con sông, được gọi là “Văn minh hai dòng sông” hay “Văn minh Lưỡng Hà”, đại khái nằm ở Iraq ngày nay và là nền văn minh sớm nhất của loài người.
Chữ viết hình nêm do người Sumer phát minh vào khoảng 3.200 năm trước Công nguyên, Thư viện Barnibal của người Assyria với 24.000 viên đất sét cách đây hơn 2.600 năm, lời nói đầu và phần tái bút, và 282 bài báo Bộ luật Hammurabi, các phép toán đại số của người Babylon trên hình tam giác, người Babylon tiên đoán chính xác về nhật thực và nguyệt thực vào năm 747 trước Công nguyên, v.v., tất cả đều thuộc về nền văn minh cổ đại của Lưỡng Hà.
Ở Trung Quốc, những chiếc bình gốm vẽ Majiayao do Bảo tàng Cam Túc sưu tầm được có hình chữ Vạn làm hoa văn chính, hiện vật cổ này có lịch sử khoảng 5.000 năm.
Ở Anh, một tảng đá có hình chữ Vạn được phát hiện ở Yorkshire, khoảng 4.000 năm trước.
Ở Hy Lạp (800 năm trước Công nguyên), chữ Vạn được sử dụng rộng rãi. Có những hình ảnh chữ Vạn trên các tòa nhà và đồ tạo tác của đền thờ, và chữ Vạn thường được vẽ trên các bình gốm sơn.
Ví dụ, một thùng chứa ngũ cốc được khai quật ở Hy Lạp được làm vào khoảng năm 700 trước Công nguyên. Mô hình Artemis (còn được gọi là Thần Mặt Trăng và Nữ thần Săn bắn) được vẽ ở trên có một vòng tròn hình chữ Vạn xung quanh nó. Người Hy Lạp cổ đại đã sử dụng chữ Vạn để biểu thị sức mạnh thần thánh?
Một ví dụ khác là Amphora of Thera, do Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia Athens sưu tầm, mô tả Trận chiến thành Troy nổi tiếng, có niên đại khoảng 900 năm trước Công nguyên, với ba chữ Vạn được vẽ trên đầu ngựa. Những chữ Vạn Hy Lạp cổ đại này có tuổi đời khoảng 3.000 năm.
Ở La Mã cổ đại (753 TCN-476 TCN), các tòa nhà như bàn thờ được đánh dấu bằng chữ Vạn, có tuổi đời gần 3.000 năm.
Trong lịch sử loài người, mối liên hệ giữa chữ Vạn và các vị thần hầu như tồn tại ở khắp mọi nơi. Chữ “Swastika” cũng rất phổ biến trong thời kỳ đầu của Cơ Đốc Giáo, được mọi người yêu quý và các tín đồ tôn trọng. Sau đó nó được sử dụng để trang trí nhà cửa và vật dụng hàng ngày nhiều hơn.
Ở Ấn Độ cổ đại, Tây Tạng, Nhật Bản, Hàn Quốc và các khu vực khác coi trọng việc thực hành Phật giáo, hình chữ Vạn thậm chí còn phổ biến hơn. Đối với người Trung Quốc và Đông Nam Á, chữ Vạn gắn liền với Đức Phật.
Ở Israel, người ta cũng tìm thấy những viên gạch lát nền các ký tự chữ vạn từ tàn tích của thị trấn cổ Mamshit vào thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên.
Mosaic cổ và bền, và nó khá phổ biến trong thời kỳ Byzantine của Đế chế La Mã (395-1453 sau Công nguyên) và thời Trung cổ (476 – 1492 sau Công nguyên).
Chữ Vạn trong lời tiên tri của người Hobbit
Người Hobbit đã truyền lại những lời tiên tri về nguồn gốc, lịch sử và tương lai của loài người từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có một “viên đá tiên tri” quý giá gần Oraibi trong khu bảo tồn, tảng đá này được khắc hình một mặt trời rạng rỡ, và tâm của mặt trời là một chữ Vạn.
Một nhà nghiên cứu về dự ngôn của Hobbit cho rằng, đồ hình chữ “Vạn” thần thánh tượng trưng cho sức mạnh tâm linh từ vũ trụ, giống như tia nắng mặt trời soi sáng loài người.
Dân tộc Hobbit tin rằng, những bức chạm khắc đá tiên tri quý giá của họ ghi lại những gì các vị Thần đã nói với họ kể từ khi nhân loại khởi nguồn. Lời dự ngôn này nói về thời đại chúng ta đang sống ngày nay.
Lời dự ngôn của Hobbit cho biết: “Năm 2000 là khoảng thời gian gần nhất, các sự việc lần lượt liên tiếp xảy ra, giống như những quân cờ domino. Điều này bắt nguồn từ sự “xuống dốc” của nhân loại.
“Chuyện sắp xảy ra này đã từng xảy ra mấy lần rồi. Là một sự thay đổi lớn, thậm chí trái đất sẽ trở thành trái đất khác.”
“Sau thời kỳ “thanh lọc”, cuộc sống sẽ thay đổi. Chỉ có một chủng ngôn ngữ, một Pháp để tuân theo. Những người có lòng dạ đen tối sẽ bị thanh lý, và những người thiện lương sẽ cùng nhau bước vào khai phá thế giới “.
Người dân tộc Hobbit còn cho biết rằng, những người có thể sống trên trái đất vào thời điểm này là may mắn nhất, lúc này mọi thứ đều đang trong giai đoạn đào thải và tịnh hóa. Dù sẽ rất khó khăn nhưng được sống trong thời đại này và chứng kiến tất cả những điều này là điều vô cùng vinh diệu.
Họ tin rằng, Đấng Tạo Hóa đã tạo ra và chi phối tất cả những điều này, và sự lựa chọn của chính con người sẽ quyết định kết quả cuối cùng của mỗi người. Trong một thời kỳ nhất định, nhân loại sẽ phải đưa ra lựa chọn cuối cùng, đó là nhân loại sẽ bước vào “sinh mệnh đại đào thải để bước vào thời kì mới”. Sau đó, ngũ cốc sinh sôi và phát triển, sinh mệnh cao cấp quay trở lại trái đất, và con đường của sự sống của sinh mệnh sẽ là vĩnh hằng bất diệt.
Đấng Cứu Thế đã đến
Theo báo cáo từ Minghui.com, vào tháng 11 năm 2000, tại một giáo đường ở miền trung nước Mỹ, một phụ nữ tốt bụng đã mời các học viên Pháp Luân Đại Pháp (Pháp Luân Công) dạy các bài công pháp và liên hệ với một số người dân địa phương quan tâm đến việc tập luyện đến tham gia. Trong sự kiện này, khán giả đã rất tâm đắc với các nguyên lý “Chân, Thiện, Nhẫn” của Pháp Luân Đại Pháp. Khi học viên giải thích về đồ hình Pháp Luân, một khán giả hào hứng nói: “Tôi đã nhìn thấy đồ hình chữ Vạn này. Tôi biết rằng một nhà hiền nhân sẽ xuất hiện ở phương Đông vào thời điểm này. Ngài ấy sẽ mang lại năng lượng thần thánh và chính nghĩa cho người dân thuộc mọi chủng tộc. Tôi đã theo dõi châu Á và chờ đợi sự xuất hiện của Ngài. Tôi nghĩ Pháp Luân Đại Pháp là điều duy nhất liên quan đến dự ngôn này.”
Nhiều người biết rằng ở phương Tây, Kinh Thánh tiên đoán rằng Đấng Cứu Thế sẽ xuất hiện vào thời khắc cuối cùng của nhân loại. Trong truyền thuyết tôn giáo phương Tây, một trong những dấu hiệu trước khi Đấng Cứu Thế đến là sự phục hồi của Israel, và thế hệ đầu tiên sau khi phục hồi Israel có thể nhìn thấy Đấng Cứu Thế.
Trong Kinh Phật ghi chép lại: Hoa Ưu Đàm ba ngàn năm mới nở một lần, và khi hoa nở chính là lúc Pháp Luân Thánh Vương hạ thế, chính Pháp cứu độ con người. Quyển thứ tám của “Huệ Lâm Âm Nghĩa”: “Hoa Utambula (Hoa ưu đàm) là biểu tượng của điều siêu nhiên và tốt lành. Nếu Đấng Cứu Thế hạ thế, Pháp Luân Thánh Vương xuất hiện ở thế gian, sẽ thấy hoa ưa đàm nở rộ khắp nơi.
Năm 1997, lần đầu tiên truyền thông Hàn Quốc đưa tin về sự xuất hiện của hoa Ưu Đàm ở chùa Cheonggyecheon, sau đó, họ đưa tin nhiều nơi ở Hàn Quốc cũng có loài hoa tuyệt vời này nở rộ. Kể từ đó, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Úc, nhiều bang khác nhau ở Hoa Kỳ, Canada, Châu Âu và nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc đại lục đã liên tiếp phát hiện ra loài hoa linh thiêng này.
Kể từ năm 2000, một số điều được mô tả trong lời tiên tri của Hobbit cũng đã được ứng nghiệm, những lời dự ngôn được ghi trong Kinh thánh, Kinh Phật và những lời tiên tri đều đã được ứng nghiệm…
Nguồn: Epochtimes
Lan Hòa biên tập