Dưới chân núi Linh Ba ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc có một ngôi chùa hàng nghìn năm tuổi tên là chùa Bảo Quốc. Đại điện chùa Bảo Quốc: “ Chim không vào, sâu không đục, nhện không giăng, bụi không bám”. Trải qua ngàn năm thăng trầm mưa gió, ngồi chùa vẫn uy nghiêm như xưa.
Chùa Bảo Quốc bắt đầu từ chùa Linh Ba vào thời Đông Hán và được đặt tên vào năm Quảng Minh Đường đầu tiên (880). Theo biên niên sử, vào thời kỳ Kiến Vũ của nhà Đông Hán, Hứa Ba tướng quân Trương Ý và con trai của Trương Ý là Trương Kỳ Phương yêu thích cảnh đẹp nơi đây nên đã sống ẩn dật tại đây. Sau đó, khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, ngôi chùa trở thành một tu viện, vì nó được xây dựng trên núi Linh Sơn nên nó được gọi là “chùa Linh Sơn”.
Vào năm Tăng Huệ Thành (Tang Huichang) thứ 5 (845), chùa Linh Sơn bị phá hủy. Cho đến năm Đường Quang Minh thứ nhất (880), một vị cao tăng tên là Khả Công “Kegong” ở chùa Quốc Ninh ở Ninh Ba, theo yêu cầu của người dân địa phương, đã đến Trường An để viết thư cho triều đình và yêu cầu khôi phục lại ngôi chùa. Hoàng đế nhà Đường lúc đó là Tang Xizong, khi đó 18 tuổi, không chỉ chấp thuận yêu cầu xây dựng lại chùa mà còn đặt cho chùa là “chùa Bảo Quốc”.
Chính điện của chùa Bảo Quốc được xây dựng lại vào năm Tương Phủ thứ sáu của Tống Chân Tông (1013) và có lịch sử một nghìn năm.
Chùa Bảo Quốc không chỉ nổi tiếng về kiến trúc độc đáo và lịch sử lâu đời. Chùa Bảo Quốc có thể được mô tả như một “cuốn sách lịch sử được viết bằng gỗ cứng” và nó là một trong số ít các công trình kiến trúc cổ thời Đường và Tống được bảo tồn nguyên vẹn nhất và còn sót lại ở phía nam của Dương Tử.
Sảnh Đại Lạc của chùa Bảo Quốc có cấu trúc tinh xảo và phức tạp, tất cả các cấu trúc đều không cần một chiếc đinh sắt nào để liên kết. Các mái vòm được kết nối khéo léo bằng các mối ghép chính xác, và các bộ phận của tòa được kết nối chắc chắn với nhau, nâng đỡ toàn bộ mái cung điện.
Trên trần rãnh phía trước của chính điện, ba giếng tảo rỗng liên kết hữu cơ với tổng thể được bố trí khéo léo, trần và giếng tảo được dùng để che dầm của chính điện, không dễ dàng cho người dân, nên có tên là “Vô lương điện” (điện không xà).
Chiều dài của toàn bộ sảnh lớn hơn chiều rộng, là hình chữ nhật hướng dọc nên không khí bên ngoài đi thẳng vào bên trong mà không bị cản trở. Vòm được sử dụng kết cấu đấu củng với các thanh gỗ đan xen nhau một cách khéo léo giống như hình dạng của lốc xoáy trên chính điện, quanh năm không có bụi bám và mạng nhện.
Ngoài ra còn có một truyền thuyết “chim không vào, côn trùng không đục” trong ngôi chùa Bảo Quốc, tương truyền có liên quan đến các vật liệu được sử dụng ở trong chùa. Năm 1975, trong quá trình bảo trì chùa Bảo Quốc, người ta phát hiện ra từ các xà và cột được thay thế bằng gỗ có mùi thơm nồng. Các chuyên gia nhận thấy loại gỗ này là cây bách xù vàng, có độ cứng và chống ăn mòn cao. Do trong cây bách xù vàng có chứa chất dầu có mùi thơm hắc nên các loài chim, nhện,… rất “ngán”.
Ngoài ra, bên ngoài chính điện của chùa Bảo Quốc còn có hai “bánh bao hấp bằng gỗ” được giấu và giấu ở hai bên sườn của xà ngang phía tây. Truyền thuyết kể rằng các vị sư ở chùa Bảo Quốc gặp nạn đói, may mắn thay, một vị thần đã xuống thế gian và ném hai chiếc bánh bao hấp bằng gỗ biến chúng thành những chiếc “bánh bao hấp nóng hổi” ăn mãi không hết để giúp các nhà sư vượt qua khó khan, xoa dịu cơn đói và chữa lành cho những người đói. Và người bất tử này chính là Luban được người đời coi là thợ mộc bậc thầy.
Có một câu trong “Sự tích chùa Bảo Quốc” là minh chứng cho những sự tích trên:
“Xưa kia, Lỗ Ban kỳ diệu, kỳ tích giữa xà đã lưu lại”
Cũng có một nhà sư truyền tụng: “Giai thoại thì mờ nhạt, và các di tích lịch sử không biết đúng sai. Nhưng sao bánh hấp vẫn còn ở đây, Thần từng cứu các nhà sư khỏi nạn đói ”.
Thiên Hà biên tập
Nguồn: soundofhope