“Văn hóa quân tử” là một bộ phận quan trọng cấu thành nên văn hóa truyền thống. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, quân tử là một mẫu hình của đạo đức cao thượng, hội tụ những tinh hoa của phẩm chất: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín,…
Người quân tử coi việc phát huy mạnh nền văn hóa đạo nghĩa của đất nước, thiện hóa dân chúng là nghĩa vụ của mình, bản tính khiêm tốn và có tấm lòng rộng lớn, khoáng đạt, có thể gánh vác sứ mệnh và trách nhiệm bảo vệ chân lý, chính nghĩa.
“Quân tử” là trung tâm và trọng điểm mà Khổng Tử luận thuật. Để có thể phân biệt rõ hình tượng của người quân tử, Khổng Từ thường so sánh những điểm khác biệt giữa quân tử và kẻ tiểu nhân, từ góc độ tu dưỡng đạo đức, lý tưởng nhân cách, quan niệm về nghĩa và lợi, và hành vi để phân biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân.
1. Người quân tử trọng nghĩa, kẻ tiểu nhân trọng lợi
Trích nguyên văn: “Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi”
Ý nghĩa nói là, điều mà người quân tử có thể lĩnh ngộ được chính là đạo nghĩa, điều mà kẻ tiểu nhân có thể lĩnh ngộ được chỉ là lợi ích cá nhân. Chữ “dụ” ở đây có nghĩa là hiểu rõ, lĩnh hội, lĩnh ngộ được. Hàm nghĩa cụ thể chính là giá trị nhân sinh quan của quân tử và tiểu nhân là không giống nhau. Người quân tử khi hành sự đều phân biệt rõ đúng – sai, phải – trái, còn tiểu nhân hành sự dựa trên sự tính toán thiệt hơn, lợi – hại.
Cái gọi là “lợi” chính là chỉ kim tiền, của cải và lợi ích vật chất, cái gọi là “nghĩa” chính là giá trị đạo đức vượt trên lợi ích vật chất, ví như: đạo nghĩa, chính nghĩa. Quân tử hành sự luôn lấy nghĩa làm trọng, mỗi khi đưa ra quyết định làm hay không làm gì, đều dùng cái “nghĩa” để cân nhắc, sau đó mới quyết định làm hay không.
Còn kẻ tiểu nhân chỉ coi trọng tư lợi, dùng lợi ích để đo lường tất cả, có thể vì lợi mà vứt bỏ đạo nghĩa, khi làm bất cứ điều gì cũng nghĩ xem việc đó có đem lại lợi ích gì cho bản thân hay không.
Một người quân tử chân chính, ắt là người có truy cầu tinh thần cao thượng. Khổng Tử từng nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hĩ”, tức Sáng nghe Đạo, tối chết cũng được rồi.
“Quân tử mưu đạo bất mưu thực” tức quân tử mưu cầu Đạo chứ không mưu cầu ăn gì.
“Ưu đạo bất ưu bần” nghĩa là lo Đạo chứ không lo nghèo.
“Quân tử mưu đạo bất mưu thực” tức Quân tử mưu cầu đạo chứ không mưu cầu cái ăn.
“Ưu đạo bất ưu bần” tức Lo Đạo không lo nghèo.
Khổng Tử khen học trò của ông là Nhan Hồi rằng: “Hiền tai, Hồi dã. Nhất đạm thực, nhất biều ẩm, tại lậu hạng. Nhân bất kham kỳ ưu, Hồi dã bất cải kỳ lạc”, tức Nhan Hồi là người hiền đức thay. Một giỏ cơm, một gáo nước, ở trong ngõ hẻm. Người khác ưu sầu không chịu nổi, nhưng Nhan Hồi vẫn vui vẻ không đổi thay.
Bản thân Khổng Tử cũng như thế, “Phạn sơ thực ẩm thủy, khúc quăng nhi chẩm chi, lạc diệc tại kỳ trung hĩ” tức Ăn cơm thô, uống nước trắng, gối lên cánh tay ngủ, niềm vui cũng đã có từ trong đó rồi.
Đối người quân tử có phẩm đức cao thượng mà nói, niềm vui không ở sự hưởng thụ vật chất, mà là truy cầu về cảnh giới tinh thần, đó là niềm hạnh phúc hòa hợp với Đạo nằm sâu trong tâm hồn.
Người quân tử có thể yên lòng với cảnh nghèo khó mà vui với Đạo. Khổng Tử nói: “Chi lan sinh ư thâm lâm, bất dĩ vô nhân nhi bất phương. Quân tử tu đạo lập đức, bất vị cùng khốn nhi cải tiết”, tức là Cỏ chi và hoa lan mọc trong rừng sâu, không vì không có người biết đến mà không thơm. Người quân tử tu đạo lập đức, không vì gặp cảnh khốn cùng mà thay đổi tiết tháo.
Khổng Tử cho rằng, tu dưỡng của người quân tử là lấy Đạo làm chuẩn mực, phù hợp với Đạo. Nếu được phú quý mà trái với Đạo thì kiên quyết không làm. Người quân tử phải “kiến lợi tư nghĩa” tức là thấy lợi thì nghĩ đến nghĩa, coi phú quý có được bằng bất nghĩa là phù vân: “Bất nghĩa nhi phú thả quý, ư ngã như phù vân“, tức Bất nghĩa mà giàu lại sang thì đối với ta như phù vân.
Khổng Tử cả một đời truy cầu chân lý, ông đích thân dẫn học trò đi chu du các nước hoằng Đạo. Một lần ở nước Trần bị hết lương thực, Khổng Tử nói: “Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm “ tức “Người quân tử ở hoàn cảnh khốn cùng thì cố thủ tiết tháo, còn tiểu nhân ở cảnh khốn cùng thì nghĩ bừa làm loạn” .
Đó là nói khi người quân tử bị rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, hoạn nạn, thì vẫn phải giữ vững chí hướng, kiên trì với mục đích chính nghĩa của bản thân. Còn tiểu nhân khi gặp cảnh khốn cùng thì sẽ suy nghĩ bừa bãi, hành động bừa bãi.
Học trò của Khổng Tử là Tử Lộ nói: “Như chúng ta trong thời loạn thế hoằng đạo như thế này quả thật là quá khó“.
Khổng Tử nói: “Đã hoằng đạo thì phải trong lòng mãi mãi kiên trì đạo nghĩa, bất kỳ tình hình nào cũng không thể dao động, giống như những cây tùng cây bách kia, bất kể thời tiết giá lạnh như thế nào, sương tuyết khắc nghiệt ra sao thì vẫn luôn xanh tươi không héo úa“.
2. Quân tử hài hòa với mọi người mà vẫn có kiến giải riêng, tiểu nhân hùa theo người khác mà không hài hòa.
Trích nguyên văn: “Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa.”
Ở đây Tử lấy Hòa và Đồng làm một tiêu chuẩn phân biệt quân tử và tiểu nhân.
“Hoà nhi bất đồng” truy cầu sự hài hòa thống nhất nội tại, chứ không phải sự đồng ý nhất trí biểu hiện bề ngoài. Tinh thần của Hòa là với tiền đề thừa nhận tính đa dạng, sự khác biệt của sự vật, kiên trì giữ gìn tính đa dạng đó, đối với sự vật nhân tố khác biệt cùng tồn tại, giao hòa với nhau, thành tựu và hỗ trợ lẫn nhau, tương tác và bổ sung cho nhau, khiến vạn vật sống động phát triển không ngừng.
Còn ngược lại, “Đồng nhi bất hòa” chính là bài xích những gì khác biệt mình, tiêu diệt sự khác biệt. Đây là khuynh hướng đơn nhất, cuối cùng ắt sẽ dẫn đến sự vật đình trệ và diệt vong. Ví dụ ngũ âm hài hòa mới thành giai điệu, nếu tất cả chỉ có một âm thì không thể nào khiến người ta nghe nổi.
Quan niệm “Hòa nhi bất đồng” là, người quân tử khi giao tiếp, đối nhân xử thế thì có lòng độ lượng bao dung mọi người, nhưng vẫn kiên trì giữ vững tiết tháo và đạo nghĩa của mình, cùng mọi người giúp đỡ, bổ sung lẫn nhau chứ không a dua phụ họa quyền thế, không hùa theo thế lực hắc ám.
Tiểu nhân kết giao ắt sẽ cùng mưu lợi, dựa vào cường quyền, ai nấy đều ôm lòng hại người lợi mình. Để đạt được tư lợi thì cả bọn về bề ngoài đoàn kết nhất trí, nhưng quay lưng lại liền ngấm ngầm công kích nhau, triệt hạ nhau, do đó “Đồng nhi bất hòa“.
Quân tử kết giao thanh đạm như nước, tiểu nhân kết giao ngọt ngào như rượu. Quân tử không truy cầu Đồng, sẽ không yêu cầu người khác phải giống như mình, mỗi người giữ đặc điểm riêng của mình.
Khi đối đãi bằng hữu thì người quân tử có thái độ tôn trọng lắng nghe, đó là loại kết giao thuần tịnh không nhiễm sắc thái công danh lợi lộc nào, do đó xem ra rất bình thường thanh đạm như nước, thực tế đó là một loại kết nối tâm hồn.
Tiểu nhân thì không như vậy, vì tiểu nhân cầu Đồng, chú ý đến hình thức bên ngoài, là kết quả hành vi tương đồng, cùng nhau, chứ không phải là sự hòa hợp về nội tâm.
Khổng Tử nói, quân tử “Căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng“, tức ý nói trang trọng mà không tranh đấu, đoàn kết mà không bè đảng. Đó là nói người quân tử nội tâm trang trọng, chung sống hòa thuận với mọi người, không kéo bè kết đảng mưu lợi cá nhân.
Còn tiểu nhân thì trái ngược với quân tử. Khổng Tử gọi những người việc gì cũng a dua phụ họa, không có nguyên tắc đạo đức là “ngụy thiện” (hương nguyện), ông phê phán rằng: “Ngụy thiện là giặc của đạo đức” (Hương nguyện, đức chi tặc dã). Ông chỉ rõ: kẻ tiểu nhân, ngụy quân tử nhất định sẽ bị mọi người phỉ nhổ.
Khổng Tử nói, phán đoán đức hạnh một người thì “không dựa vào sự yêu ghét của số đông, mà nên dựa vào tiêu chuẩn đạo đức, thiện ác“. Người quân tử đối với những vấn đề nguyên tắc như sai lớn, đúng lớn thì bất kỳ lúc nào cũng sẽ không thỏa hiệp.
3. Quân tử tấm lòng rộng mở khoáng đãng, tiểu nhân luôn so đo tính toán thiệt hơn.
Trích nguyên văn: “Quân tử thản đãng đãng, tiểu nhân trường thích thích”
Người quân tử quang minh lỗi lạc, không lo âu, không sợ hãi, trong lòng mãi mãi trong sạch sáng tươi, giống như làn gió xuân mát lành chan hòa, giống như trăng thu trong sáng tinh khiết. Người quân tử luôn bảo trì cảnh giới nội tâm như vậy, luôn dùng thiện đãi người, do đó tấm lòng luôn rộng mở và bình thản.
Còn kẻ tiểu nhân thì sao? Trong lòng lúc nào cũng canh cánh nỗi lo được mất, luôn cảm thấy người khác có lỗi với mình, hoặc việc nào đó không có lợi cho mình, thế nên tiểu nhân bận rộn tính toán so đo, bị các loại dục vọng và lợi ích dẫn đường, thường xuyên rơi vào tình trạng lo lắng, sợ hãi, do đó “luôn so đo tính toán”.
Khổng Tử đề xuất, quân tử phải coi trọng thành tín. Thành thực là Đạo của Trời. Thánh nhân đồng lòng với Trời Đất, cần phải làm được không có tư dục, thản nhiên không lừa dối, bền bỉ không mệt mỏi. “Quân tử sỉ kỳ ngôn nhi quá kỳ hành“, tức Người quân tử cảm thấy sỉ nhục khi lời nói vượt quá hành động.
Người quân tử cần cẩn thận giữ vững trung tín, trong ngoài như một, lời nói đi đôi với việc làm, từ đó biểu hiện ra nhân cách người quân tử chân thành, đồng thời nói rõ kẻ ngụy quân tử giả dối là điều sỉ nhục của Nho gia, quyết không phải là người chí đồng đạo hợp, vì đó là kẻ lợi dụng, mượn danh Nho gia, Nho học để che giấu cái giả dối, ác hạnh của họ.
Người quân tử trong lòng luôn có lễ nghĩa, hành vi quang minh chính trực, không làm ra cái oai môn tà đạo, “hành xử ắt theo đường chính đạo, không phải việc công thì không tìm đến bàn riêng”. Người quân tử dám kiên trì nguyên tắc chính đạo, quy chính cách làm không hợp với đạo nghĩa của người khác, chứ không a dua phụ họa, không thấy mọi người thế nào mình cũng nói thế ấy.
Lòng dạ và tầm nhìn của quân tử và tiểu nhân là hoàn toàn khác nhau. Khổng Tử nói: “Quân tử đạo giả tam, nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dũng giả bất cụ“, tức ý nói Đạo người quân tử có ba phương diện: người nhân thì không lo buồn, người trí thì không mê hoặc, người dũng thì không sợ hãi. Ông khen ngợi Nhan Hồi “an bần lạc đạo”, Tử Cống thông minh, chân thành, Tử Lộ đôn hậu, chính trực, dũng cảm, Tăng Sâm trung thực, quang minh.
Nguồn: Epochtimes/NTD
Chân Nhiên biên tập