Nguồn: tamsucuocsong

Văn Hóa

Khổng Tử: Luận bàn về bảy điểm khác biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân (Phần 2)

By Lan Hòa

March 12, 2022

“Văn hóa quân tử” là một bộ phận quan trọng cấu thành nên văn hóa truyền thống. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, quân tử là một mẫu hình của đạo đức cao thượng, hội tụ những tinh hoa của phẩm chất: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín,…

4. Quân tử yêu cầu bản thân mình, tiểu nhân yêu cầu người

Trích nguyên văn: “Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân”.

Ý nghĩa của câu nói này chính là: Quân tử tự đặt ra yêu cầu cho chính mình, để ước thúc và đề cao đạo đức, phẩm hạnh, còn tiểu nhân luôn đặt ra yêu cầu người khác phải làm theo ý của họ. Khi gặp mâu thuẫn, quân tử sẽ tự tìm nguyên nhân ở bản thân mình, còn tiểu nhân thì luôn tìm nguyên nhân ở người khác, đổ lỗi cho người khác.

Khổng Tử nhấn mạnh rằng người quân tử thì có đức của người quân tử. Nhân, Nghĩa là phẩm đức mà người quân tử ắt phải có, truy cầu nhân đức kiên trì không mệt mỏi, mới có thể đạt được cảnh giới của Nhân.

Nhan Hồi thắc mắc rằng làm thế nào mới đạt được Nhân, Khổng Tử trả lời: “Nếu trò có th chiến thng tư dc ca bn thân, tr v vi Thiên lý thế thì người trong thiên h đu ca ngi trò là người nhân đc“.

Nhân và Nghĩa là đức người quân tử, tiểu nhân không thể nào có thể với đạt tới được. Người quân tử ngày ngày tinh tấn vươn lên trong tiến đức tu nghiệp, kẻ tiểu nhân ngày ngày sa sút chìm đắm trong tư dục.

Khổng Tử nói: Người quân tử có thể “nội tỉnh bất cứu, quá tắc vật đạn cải”, tức người quân tử có thể kiểm điểm bản thân mà trong lòng không hổ thẹn, mắc lỗi thì không e ngại sửa đổi.  Người quân tử không ngừng tự kiểm điểm bản thân, thông qua tu thân để hoàn thiện tu dưỡng bản thân, rèn giũa phẩm cách của bản thân mình.

Tiểu nhân khi có lỗi lầm thì luôn luôn muốn đẩy lỗi cho người khác, hoặc dùng lời hoa mỹ che lấp lỗi lầm đi, không dám đối diện với khiếm khuyết của chính bản thân mình.

Khổng Tử và các đệ tử khi luận về học đạo và tu hành thì luôn luôn lấy mối quan hệ giữa bản thân với người xung quanh làm xuất phát điểm để suy xét. Khổng Tử khen Nhan Hồi: “bất thiên nộ, bất nhị quá” tức không trút giận lên người khác, không mắc lỗi lặp lại”.

Tử Cống nói: “Quân t chi quá dã, như nht nguyt chi thc yên. Quá dã, nhân giai kiến chi; Canh dã, nhân giai ngưỡng chi”, tức ý nói lỗi lầm người quân tử như nhật thực, nguyệt thực. Có lỗi lầm thì mọi người đều nhìn thấy. Sửa chữa lỗi lầm rồi thì mọi người đều ngưỡng vọng.

Đây chính là người quân tử ngày ngày đều phải tự kiểm điểm xem xét mình nhiều lần, từ đó nỗ lực không mệt mỏi trên con đường truy cầu nhân cách lý tưởng.

5. Người quân tử thành tựu cái tốt đẹp chứ không thành tựu cái xấu xa cho người khác, còn tiểu nhân thì ngược lại

Trích nguyên văn: “Quân t thành nhân chi m, bt thành nhân chi ác; Tiu nhân phn th”.

Người quân tử tác thành việc tốt cho người khác, không thúc đẩy việc xấu cho người khác, còn tiểu nhân thì ngược lại. Là người quân tử thì sẽ đặt mình vào vị trí người khác để nghĩ, “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” tức cái mình không mun thì ch làm cho người,” “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân” tức điều mình muốn thành tựu thì thành tựu cho người, điều mình muốn đạt được thì giúp người đạt được.

Khổng Tử nói, đối nhân xử thế thì phải bắt đầu từ làm người, đối nhân xử thế không phải là mục đích mà phải khiến bản thân nâng cao cảnh giới, trở về với Thiên lý.

Quân tử nghiêm khắc với bản thân mà khoan dung với người. Chỉ có thực sự tiết chế bản thân thì mới có thể đối diện với thế sự bằng tấm lòng nhân đức; mới có thể đạt đến lòng nhân ái quan tâm yêu thương người khác, yêu quý sinh mệnh, yêu quý trời đất vạn vật; mới có thể thành tựu “thc thi nhân đc khp người dân, giúp dân chúng“; mới trở thành người thực hiện lý tưởng “ni Thánh ngoi vương“.

Ý chí của quân tử không chỉ là dũng cảm không sợ hãi điều gì, mà còn có nghị lực gánh vác trọng trách, có th kh dĩ thác lc xích chi cô, kh dĩ ký bách lý chi mnh, lâm đi tiết nhi bt kh đot dã “, tức phó thác quân chủ ấu thơ, có thể gửi gắm vận mệnh quốc gia, đứng trước sinh tử mà không dao động, khuất phục. Người quân tử có trọng trách trừ tà phù chính, tế thế an dân.

Hết thảy hành vi của người quân tử đều hiển dương luân lý đạo đức và là hình mẫu cho nhân dân. Người quân tử cũng là hình mẫu về người thực hành đạo nghĩa và khắc chế bản thân. Còn tiểu nhân chỉ nhìn lợi ích trước mắt, thích câu kết mưu cầu lợi ích cá nhân, không từ thủ đoạn chỉ để thỏa mãn tư dục.

6. Đức người quân tử như gió, đức tiểu nhân như cỏ, gió thổi thì cỏ rạp.

Trích nguyên văn: “Quân t chi đc phong, tiu nhân chi đc tho, tho thượng chi phong tt yn.”

Khổng Tử cho rằng, người quân tử có trách nhiệm xã hội giáo hóa người dân, lấy sự nghiệp tế thế giúp dân làm hoài bão. Tinh thần đảm đương này cũng là nhân cách mà Nho gia nói “Coi vic thiên h là trách nhim bn thân” (Dĩ thiên hạ vi kỷ nhiệm).

Tăng Sâm cũng nói: ” Sỹ bất khả bất hoằng nghị, nhiệm trọng nhi đạo viễn tức người trí thức có chí hướng rộng lớn, ý chí kiên cường, bởi vì trách nhiệm của họ trọng đại, và con đường phải đi thì rất xa.

Khi Khổng Tử chu du các nước, có lần muốn đến vùng Cửu Di – nơi người man di cư trú. Có người nói: “Vùng đó phong tc thô tc xu xí, làm sao mà được?

Khổng Tử nói: “Người quân t đó thì làm gì còn thô tc b lu na?

Huyện tể huyện Đơn Phụ là Mật Tử Tiện, là học trò của Khổng Tử. Khi Khổng Tử đi qua Đơn Phụ, nghe thấy từ trong thành có tiếng đàn cầm và đàn sắt cùng tiếng hát ca vọng đến, Khổng Tử cười và hỏi Mật Tử Tiện: “Tr sa huyn thành cũng dùng đến l nhc giáo hóa à?

Mật Tử Tiện trả lời rằng: “Thy đã ging ‘Người quân t hc đo thì yêu dân’. Con đã theo thy hc đo giáo hóa bng l nhc, đương nhiên phi ng dng vào trong thc tin. Còn dùng l đi x vi ph thân đ đi x vi người già, dùng lòng yêu thương con cái đ đi x vi tr em, cu nguy giúp khó, trng dng người hin năng. Người dân đu chung sng hòa thun“.

Khổng Tử vui mừng khen ngợi rằng: “T Tin qu thc là người quân t. Tuân theo mnh Tri, dùng nhân đc đ cm phc người, dùng l nhc đ tr sa thế tc, người dân đu quy v trò, mà Thn linh cũng s lng l tr giúp trò. Đa phương trò cai qun tuy không ln, nhưng phương pháp tr sa thì rt chính đi, có th tr sa thiên h được, na là ch mt huyn thành này“.

Mật Tử Tiện sau này trở thành danh nhân “dùng nn chính tr nhân đc đ giáo hóa“, khiến đức ăn sâu trong tâm người dân, phong tục thuần hậu, sử sách khen ngợi rằng “gy đàn mà thnh tr“.

7. Người quân tử có ba điều sợ: Sợ mệnh Trời, sợ đại nhân, sợ lời của Thánh nhân. Tiểu nhân không biết mệnh Trời nên không sợ, khinh nhờn đại nhân, coi thường lời của Thánh nhân.

Thiên mệnh mà Khổng Tử và các học trò cả đời dốc sức là kế thừa đạo thống, truyền thừa mạch văn hóa thiên cổ, kiên định “Đo cu giúp thiên h“. Ông cho rằng đây là trách nhiệm mà Thượng Thiên trao cho ông và các học trò, do đó nhất định phải thực hiện.

Trong hoàn cảnh xã hội lễ băng nhạc hoại, tuy đảo điên tán loạn, liên tiếp gặp gian nan nhưng thầy trò Khổng Tử vẫn quyết chí bền lòng.

Một lần Khổng Tử dẫn học trò đến nước Tống. Ông dạy học trò luyện tập lễ nghi dưới gốc cây đại thụ. Tư Mã Hoàn Đồi nước Tống đe dọa Khổng Tử, ngăn cản ông hoằng đạo, và sai người nhổ cây đại thụ đó đi.

Học trò rất lo cho sự an toàn của thầy, muốn Khổng Tử mau chóng rời khỏi nước Tống. Khổng Tử nói: “Tri sinh đc ta, Hoàn Đi làm gì được ta“.

Khổng Tử cho rằng, đức mà ông có là do Thượng Thiên ban cho thì Hoàn Đồi có thể làm gì được ông? Điều này đã thể hiện niềm tin của Khổng Tử vào Đạo Trời và tinh thần người nhân đức thì không sợ hãi.

Một lần đại phu nước Vệ là Vương Tôn Giả hỏi Khổng Tử: “Người ta nói, th phng Thn Áo (Thn cai qun nhà ca) không bng th phng Thn Táo (Thn cai qun bếp), như thế nghĩa là sao?

Khổng Tử trả lời: “Không đúng. Đc ti vi Tri thì làm sao còn có nơi nào đ cu xin đây“.

Câu trả lời của Khổng Tử nghĩa là nếu trái với Đạo Trời thì dẫu có cầu khấn thế nào đi nữa cũng vô dụng. Khổng Tử cho rằng biết được mệnh Trời là cực kỳ quan trọng: “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã “, tức “Không biết mnh thì không ly gì đ tr thành người quân t được” .

Kinh dịch viết:  “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức. Địa thế khôn, quân tử dĩ hậu đức tải vật”, tức Trời vận hành mạnh mẽ, người quân tử luôn tự cường không ngừng nghỉ. Địa thế khôn, người quân tử dùng đức dày mang chở vật.

Người quân tử là hóa thân của nhân cách lý tưởng. Các mỹ đức trong văn hóa truyền thống đều cấp cho người quân tử, dạy con người làm người quân tử, chớ làm tiểu nhân, khiến con người suy nghĩ về giá trị tôn nghiêm của nhân tính và lương tri, mãi mãi khiêm tốn truy cầu chân lý, không bị rơi vào vòng danh lợi ham dục.

Người quân tử là hình mẫu mà người xưa vô cùng sùng kính. Trong lịch sử chính vì đã có vô số những người nhân nghĩa chí sỹ, những chính nhân quân tử kiên trì giữ gìn đạo nghĩa và tiết tháo nên con người mới vượt qua bao sóng gió, xua tan mây mù đi tiếp đến ngày hôm nay.

 

Nguồn: Epochtimes/NTDVN

Chân Nhiên biên tập