Nấm là nguyên liệu phổ biến trong chế biến món ăn, nấm mịn màng và thơm ngon. Ăn nhiều nấm hương, nấm bào ngư Nhật có thể giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh ung thư, không những vậy còn có thể cải thiện khả năng miễn dịch trong thời kỳ dịch bệnh.
1. Các loại nấm này chứa nhiều ergothione, giúp ngăn ngừa ung thư
Năm nay, Đại học Pennsylvania đã công bố một nghiên cứu trên Tạp chí của Hiệp hội Dinh dưỡng Hoa Kỳ, “Tiến bộ trong Dinh dưỡng”, và chỉ ra rằng những người bổ sung nhiều loại nấm vào chế độ ăn hàng ngày có nguy cơ mắc ung thư thấp hơn. So với những người không ăn nấm, những người ăn 18 gam nấm mỗi ngày có thể giảm 45% nguy cơ mắc bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư vú.
Nhiều chất ô nhiễm và thói quen xấu trong cuộc sống có thể khiến cơ thể sản sinh ra các gốc tự do, gây ra quá trình oxy hóa bất thường và gây viêm mãn tính cho cơ thể, từ đó phá hủy tế bào, đẩy nhanh quá trình lão hóa, tăng nguy cơ mắc bệnh và ung thư.
Nấm có chứa ergothioneine và cơ thể không thể tổng hợp được (Ergothioneine), các nhà nghiên cứu cho biết nấm là nguồn cung cấp ergothioneine cao nhất trong chế độ ăn uống, là một chất chống oxy hóa và các chất bảo vệ tế bào có thể giảm oxy hóa, viêm nhiễm, giảm khả năng mắc bệnh ung thư.
Các loại nấm khác nhau có nồng độ ergothione khác nhau. Nồng độ của ergothione trong nấm hương, nấm tú trân, nấm khiêu vũ và nấm bào ngư Nhật là cao hơn so với nấm kim châm, nấm mỡ (nâu và trắng). Nhưng nghiên cứu cho thấy, ăn bất kỳ loại nấm nào cũng đều có thể giúp ngăn ngừa ung thư.
Lợi ích của ergothioneine, chống viêm và chống oxy hóa, không chỉ giới hạn trong việc ngăn ngừa ung thư. Nhà dinh dưỡng Hạ Tử Văn cho biết, ergothioneine cũng có thể trì hoãn sự suy giảm trí nhớ, ngăn ngừa chứng mất trí nhớ, cải thiện tình trạng kháng insulin và ngăn ngừa bệnh tiểu đường.
Một nghiên cứu ở Singapore cho thấy nếu người cao tuổi ăn hơn 300 gam nấm mỗi tuần có thể trì hoãn quá trình lão hóa não và giảm một nửa nguy cơ suy giảm nhận thức nhẹ.
Một nghiên cứu khác cho thấy hàm lượng ergothioneine cao trong máu giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và tỷ lệ tử vong.
2. Ăn nhiều nấm để cải thiện khả năng miễn dịch và kiểm soát lượng đường trong máu
Nấm rất giàu giá trị dinh dưỡng, ngoài ergothioneine, chúng còn chứa nhiều vitamin B phức hợp và protein. Ngoài ra, ß-glucan, triterpenoids và chất xơ hòa tan trong nước cũng là những chất dinh dưỡng nổi bật đối với nấm.
- ß-Glucan (Beta-Glucan): Trong số rất nhiều chất dinh dưỡng có trong nấm, được biết đến rộng rãi nhất là polysaccharide, Hạ Tử Văn giới thiệu rằng ß-Glucan là một loại polysaccharide, có thể làm giảm độc tố tế bào và cải thiện khả năng miễn dịch của cơ thể.
- Triterpenoids: có thể ức chế sự phát triển của tế bào ung thư và thúc đẩy chức năng gan.
- Chất xơ hòa tan trong nước: có thể dùng làm nguồn thức ăn cho men vi sinh đường ruột, có thể điều chỉnh hệ vi khuẩn đường ruột, giảm tiết các chất gây viêm của vi khuẩn xấu, do đó giảm viêm; cũng giúp tăng độ nhạy insulin, giảm trở kháng, giúp kiểm soát lượng đường trong máu.
Hơn 70% tế bào miễn dịch của cơ thể tập trung ở ruột, khi chuyển giai đoạn vi khuẩn đường ruột cũng giúp tăng cường khả năng miễn dịch.
3. 2 loại người không nên ăn nhiều
Một số người thích ăn nấm sống. Ngày nay, hầu hết các loại nấm đều được trồng nhân tạo trong nhà và rất an toàn, nhưng vẫn nên nấu chín trước khi ăn. Vì nấm rất giàu polysaccharid, mỗi người có khả năng chịu đựng khác nhau khi ăn nấm sống, có thể gây khó chịu đường tiêu hóa, thậm chí tiêu chảy.
Hạ Tử Văn chỉ ra rằng một số chất dinh dưỡng chắc chắn sẽ bị mất đi trong quá trình nấu nấm.
Ngoài ra, trong số các loại nấm khô bán trên thị trường, nên mua loại nấm đã phơi nắng có chứa vitamin D. Nếu là nấm phơi khô trong không khí thì hàm lượng rất ít. Điều này là do ergosterol là tiền chất của vitamin D2 và có thể được chuyển đổi thành vitamin D khi nhận được tia cực tím.
Trong số đó, nấm càng nhăn thì càng chứa nhiều vitamin D cao hơn. Hạ Tử Văn giải thích rằng vì ergosterol chủ yếu tồn tại ở dạng nếp gấp. Ví dụ, Flammulina velutipes có ít nếp nhăn hơn và ít vitamin D.
Tất cả các loại nấm đều có thể ăn được nhiều hơn, nhưng có hai loại mọi người cần lưu ý về lượng ăn của chúng:
Bệnh nhân bị bệnh thận: các loại nấm khác nhau có hàm lượng kali cao, những người có vấn đề về chức năng thận nên chần chúng trước khi ăn.
Bệnh nhân gút: Nấm chứa hàm lượng purin cao, mặc dù các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy nguy cơ mắc bệnh gút có tương quan nghịch với việc ăn nấm nhưng những bệnh nhân vẫn dễ bị gút ăn nấm nên dùng một cách hợp lý.
Thiên Hà biên tập
Nguồn: epochtimes