Socrates (469-399BC) và Khổng Tử (551-479BC) lần lượt là một trong những đại diện uy tín và có uy tín nhất trong lịch sử tư tưởng phương Tây và phương Đông cổ đại. Tên tuổi của họ đã được mọi người nhớ đến hàng nghìn năm, tính cách của họ được người đời ca tụng, và tư tưởng của họ đã sáng chói trong lịch sử. Dù ở hai cực địa lý nhưng tư duy của họ có nhiều điểm chung.
Socrates và Khổng Tử đều quan tâm đến chính trị, và họ đã dành cả đời để nói về triết học, đạo đức và chính trị. Socrates đã từng được bầu làm thành viên của Hội đồng Athens và tham gia vào vụ án đình đám của Tướng quân Athen; trong thời kỳ Ba mươi bạo chúa, ông đã dũng cảm chống lại chế độ chuyên chế của Lydia. Khi còn trẻ, Khổng Tử cũng đã từng làm quan của nước Lỗ, và thành tích chính trị của ông rất nổi bật.
Socrates tin rằng chính trị là đạo đức, và đạo đức cũng là chính trị. Đức tính cao nhất trên thế giới là đức tính chính trị. Đạo đức chính trị vừa là một loại tri thức vừa là một nghệ thuật. Chính với nghệ thuật quản lý này, con người có thể trở thành những nhà chính trị, những người đứng đầu, những bậc cha mẹ xuất sắc, có lợi cho bản thân và những công dân khác của đất nước.
Đồng thời, đức tính tối cao này có vai trò quan trọng không kém trong đời sống riêng tư và đời sống xã hội của con người. Trong cả hai trường hợp, các công việc tương ứng phải được quản lý dựa trên nghệ thuật và kiến thức này. Kỹ năng của một người chủ hay người quản lý giỏi cũng tương tự như kỹ năng của một người cai trị giỏi, và người đi trước có thể dễ dàng thực hiện công việc của người sau.
Socrates từng nói với một người tên là Nicomahidas rằng: Quản lý việc riêng và quản lý việc công chỉ là sự khác biệt về mặt định lượng. Ở khía cạnh khác, hai người hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, không thể đánh giá thấp những người giỏi quản lý việc nhà.
Socrates cũng chỉ ra rằng có hơn 10.000 gia đình ở Athens; nếu ngay cả một gia đình không thể quản lý tốt thì làm sao họ có thể quản lý 10.000 gia đình này? Những người có kiến thức và kỹ năng tương ứng trong các vấn đề chắc chắn sẽ Là một tù trưởng xuất sắc, bất kể anh ta quản lý gia đình hay quân đội, đất nước.
Khổng Tử (Ảnh Internet)
Khổng Tử cũng là người ủng hộ chính trị có đạo đức. Trong Luận ngữ vi chính.
Ông ấy tin rằng quản lý một quốc gia nên ảnh hưởng đến người dân bằng đạo đức. Chỉ bằng cách này, người dân mới đến và qui phục, như thể bầu trời đầy sao quay quanh chòm sao Bắc Đẩu
Đồng thời, người cai quản đất nước cũng phải là một bậc hiền nhân, đạo đức cao quý. Trong “Luận ngữ vi chính” ông viết, Lãnh đạo dân bằng pháp luật đều dùng hình phạt. Lãnh đạo dân bằng đức độ và lễ khiến người ta biết xấu hổ mà tự cảm hóa. Hơn nữa, Khổng Tử cũng cho rằng những quý nhân muốn làm nên sự khác biệt trong chính trị, chỉ có thể học được kinh nghiệm quản lý từ Quản lý việc nhà, sau đó mới có thể cai quản đất nước, bình ổn thiên hạ, chính là Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Socrates tin rằng sự thịnh vượng của đất nước đến từ việc thiết lập trật tự tốt, và việc thiết lập trật tự tốt dựa trên việc thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp; bất kỳ công dân nào sống ở đất nước đều phải tuân thủ luật pháp của đất nước mà không cần bảo lưu, bởi vì luật pháp là công lý.
Ở mỗi quốc gia, những người cai trị tốt luôn coi việc tuân theo pháp luật là nghĩa vụ lớn nhất của công dân. Những thành phố có nhiều người tuân thủ pháp luật nhất, sẽ sống cuộc sống hạnh phúc nhất trong hòa bình và mạnh nhất trong chiến tranh, Nguyên tắc “tính tối cao của luật pháp” được Socrates tin tưởng đã được các nhà tư tưởng phương Tây coi là tiêu chuẩn trong hàng ngàn năm.
Lúc này, Khổng Tử ở phương Đông cũng sống trong thời đại đầy biến động. Trước thực tế xã hội loạn lạc và tranh chấp, Khổng Tử đề xuất thiết lập một trật tự cai trị mới với chuẩn mực ứng xử là “lễ”. Khi đó, Tề Cảnh Tông hỏi Khổng Tử về chính trị, và Khổng Tử trả lời rằng cách cai trị nằm ở “vua ra vua, quan ra quan, cha ra cha, con ra con” Mọi người trong xã hội đều phải tuân theo những quy định của pháp luật và hành động theo những nghi thức nhất định.
Những người con trai ở nhà phải hiếu thảo với cha mình, và những người làm quan nên trung thành với quốc vương. Nếu mọi người đều có thể, không thấy điều ác, không nghe điều ác, không nói điều ác, không làm điều ác” và giữ mọi người ở vị trí của mình, thực hiện nhiệm vụ và tuân theo các quy tắc trong mọi việc, thì đất nước sẽ có thể duy trì hòa bình lâu dài và nhân dân có thể làm được. Sống và được làm việc trong hòa bình sẽ mãn nguyện.
Về đời sống cá nhân, Socrates và Khổng Tử đều chủ trương tấm lòng trong sạch và cuộc sống trầm lặng. Một lần Antiphon khôn ngoan cố chế giễu Socrates, ông nói với Socrates: “Bạn không thể sống một cuộc sống như nô lệ; bạn ăn uống là thô thiển nhất và bạn mặc quần áo tồi tàn nhất, thậm chí Những bộ quần áo giống nhau được sử dụng trong suốt cả năm, và bạn chưa bao giờ đi tất và áo choàng”
Nhưng Socrates phản pháo lại “Bạn không thể yêu cầu gì cả. Như trời cho, càng cần ít, càng gần thần.” Người ta nói người tiết kiệm thì dễ hoàn thiện bản thân hơn người sống buông thả, trung thành với nước hơn, ngược lại chỉ có kẻ tầm thường ngu xuẩn. Tài năng sẽ ham mê nhục dục.
Socrates và Khổng Tử đều là những nhà giáo dục vĩ đại nổi tiếng thời cổ đại, họ có quan điểm rất gần gũi về tầm quan trọng của giáo dục. Socrates tin rằng bất cứ ai, tài năng hay kém năng lực, đều phải học hỏi và rèn luyện để đạt được thành công trong một số lĩnh vực nhất định, và nếu một người tài năng đã tìm hiểu trước nội dung hoạt động trong tương lai của mình và học nghệ thuật quản lý, Nếu bạn trau dồi đức tính chính trị, bạn sẽ có thể mang lại lợi ích to lớn cho đất nước trong tương lai.
Có học trò hỏi Khổng Tử rằng nếu dân của một nước rất giàu có, thì nên làm gì tiếp theo? Khổng Tử trả lời rằng họ nên được giáo dục. Theo quan điểm của Khổng Tử, giáo dục không chỉ để con người hiểu biết, mà quan trọng hơn, giáo dục phải trở thành nhu cầu tồn tại của con người.
Hai người cũng có điểm chung trong phương pháp giáo dục. Socrates đã không để lại bất kỳ tác phẩm viết nào trong cuộc đời mình. Phương pháp giáo dục học sinh của ông chủ yếu thông qua trò chuyện miệng để hướng dẫn học sinh từng bước vào vấn đề, sau đó học sinh tự cảm nhận chân lý. Phương pháp suy luận đối thoại này được Socrates gọi là bà đỡ, và chính ông là bà đỡ của chân lý.
Khổng Tử, người cũng chủ trương không có lớp học, cũng rất chú trọng đến tính tự chủ của học sinh trong quá trình dạy học. Khổng Tử cũng nói, Ông chỉ truyền cảm hứng cho học trò của mình khi họ gặp khó khăn, phân vân. Để phát hiện ra thực chất của vấn đề, từ đó hướng dẫn học sinh hiểu sâu hơn, toàn diện hơn về vấn đề.
Socrates và Khổng Tử đã sống trong thời đại mà con người chuyển từ mù mờ sang lý trí, và từ mê tín sang tự tin. Qua so sánh, chúng ta sẽ thấy rằng trong cái nôi của trí tuệ nhân loại, phôi thai tư tưởng của con người phương Đông và phương Tây có những điểm tương đồng rất lớn, việc phân tích và tìm hiểu những điểm tương đồng này sẽ giúp ích nhiều hơn cho chúng ta trong việc khám phá cội nguồn văn minh nhân loại.
Theo.epochtimes.com Kiên Tấn