Khi nói đến “rượu giao bôi”, phản ứng đầu tiên mà người ta nghĩ đến là trong lễ cưới, cô dâu chú rể mỗi người cầm một ly rượu, tay giao nhau rồi mỗi người hớp một ngụm.
Trong con mắt của người hiện đại, đây là biểu hiện của vợ chồng yêu thương nhau, trong bạn có tôi, trong tôi có bạn. Tuy nhiên, điều này khác với “chén rượu giao bôi” của người xưa không chỉ về hình thức mà còn cả về ý nghĩa.
Để nói đến tục “rượu giao bôi” của người xưa, trước hết phải nói đến cách hiểu của người xưa về ý nghĩa của lễ cưới.
Trong “Lễ ký – Hôn nghĩa” có viết: “Hôn lễ là sự kết hợp vui vẻ tốt lành của hai dòng họ, trên là việc thờ tự tông miếu, dưới là việc duy trì đời sau, do đó người quân tử rất coi trọng hôn lễ. Đối đãi với hôn lễ phải cung kính, cẩn thận, tôn trọng lễ tiết, như thế vợ chồng mới có thể tương thân tương ái, từ đó hình thành sự khác biệt giữa nam và nữ, xây dựng đạo nghĩa vợ chồng. Từ nam nữ khác biệt, sau đó mới có đạo nghĩa vợ chồng. Từ đạo nghĩa vợ chồng mới có tình cảm cha con. Từ tình cảm cha con mới có quan hệ quân thần đoan chính. Do đó, hôn lễ là gốc rễ của lễ nghi”.
“Trung Dung” nói: “Đạo của người quân tử bắt đầu từ vợ chồng”. Tác giả Lưu Hiểu cho rằng, người hiện đại xem tình cảm trong hôn nhân là quan trọng nhất, còn người xưa xem hôn nhân là “trên là thờ tự tổ tông, dưới là duy trì người đời sau”. Hôn nhân truyền thống coi trọng trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với toàn bộ gia đình, và hôn lễ là khởi đầu của trách nhiệm này.
Hôn nhân quan trọng như thế, người xưa làm thế nào để các cặp vợ chồng ý thức được tương thân tương ái, đồng cam cộng khổ, cùng nhau đối mặt với những trách nhiệm trong tương lai? Lưu Hiểu cho rằng, “rượu giao bôi” chính là một hình thức cam kết rất tốt.
Ngay từ thời Chiến Quốc, đã có nghi lễ đôi tân hôn uống “chén rượu” trong đám cưới. Vào thời nhà Chu, lễ cưới vô cùng đơn giản. Sau khi nhà trai đón cô dâu về từ họ nhà gái, nghi lễ đơn giản bắt đầu. Người hầu thay nhau xối nước và rửa tay cho chú rể và cô dâu, trong khi những người giúp việc khác sắp xếp chỗ ngồi cho bữa ăn đầu tiên của cô dâu chú rể. Vợ chồng trẻ ngồi đối diện và ăn cùng một mâm.
Thực phẩm chủ yếu trong bữa tiệc là lúa nếp và cây kê, vẫn còn có thịt khô, cá, canh thịt, và một số đồ gia vị vv…
Việc ăn uống chỉ mang tính chất nghi lễ nên vợ chồng không ăn nhiều. Đôi vợ chồng ăn cơm nếp trước, rồi dùng canh thịt, sau đó dùng ngón tay nếm nước tương, quá trình này gọi là “một bữa cơm”. Làm ba lần như thế gọi là “ba bữa cơm”. Sau “ba bữa cơm” là hoàn tất nghi lễ ăn (thực lễ). Sau đó, tân lang và tân nương súc miệng bằng rượu, gọi là “dận”, họ cũng súc miệng ba lần. Dụng cụ để uống rượu, hai lần đầu dùng tước (cốc uống rượu ba chân), lần cuối thì dùng cẩn.
Trong sách “Lễ ký – Hôn nghĩa” có ghi chép: “Hợp cẩn mà uống rượu”. Cẩn là quả bầu, bổ quả bầu làm đôi, cô dâu chú rể mỗi người cầm một nửa rót rượu mời nhau trong lễ thành hôn. Cẩn là một loại bầu đắng không thể ăn được, thường được gọi là hồ lô đắng. Vì có hình dạng hồ lô nên người ta bổ nó làm đôi, vợ chồng mỗi người lấy một phần rồi uống, nên mới gọi là “hợp cẩn” mà uống rượu.
Lúc này, hai nửa quả bầu được nối với nhau bằng sợi chỉ tượng trưng cho hôn nhân gắn kết hai người như một, cùng ăn, cùng uống nghĩa là vợ chồng hòa làm một.
Tại sao người xưa lại dùng quả bầu đắng và không ăn được để ngâm rượu?
Trong “Lễ ký – Hôn nghĩa” có đề cập đến. Ý tứ là, sau khi vợ chồng cùng uống, họ phải chia ngọt sẻ bùi, hoạn nạn có nhau, cùng chia sẻ sự mệt mỏi và những cay đắng trong cuộc đời. Ý nghĩa này đã dần dần mai một trong nghi lễ “rượu giao bôi” trong đám cưới của các thế hệ sau này.
Trước triều đại nhà Đường, về cơ bản không có thay đổi lớn trong nghi thức rượu giao bôi trong hôn lễ. Ngoài việc tiếp tục sử dụng quy chế cổ xưa trong các đám cưới vào thời nhà Đường, còn xuất hiện ly (cốc) để thay cho “cẩn”. Sau thời nhà Tống, cặp vợ chồng mới sử dụng hai ly để uống rượu giao bôi, nhưng ban đầu là cô dâu chú rể uống một nửa, sau đó đổi ly rồi uống phần còn lại. Sau khi uống, họ ném ly rượu dưới giường để biểu thị hôn nhân sau trăm năm vẫn hòa hợp.
Vào thời Mạt Thanh, nghi thức uống rượu giao bôi phát triển thành ba phần là hợp cẩn (ghép hai mảnh gáo lại với nhau), giao bôi (đan chéo tay nâng ly rượu) và nắm chặt tiền.
Hôn lễ ngày nay chỉ còn là hình thức uống rượu giao bôi. Liệu tân lang và tân nương có còn hiểu được hàm nghĩa đồng cam cộng khổ trong đó hay không?
“Tu trăm năm mới chung chuyến thuyền, tu nghìn năm mới nên duyên vợ chồng”, vậy nên sau khi kết hôn, cô dâu và chú rể hãy trân trọng mối duyên này, và cùng nhau vun đắp tình cảm để xây dựng một gia đình hạnh phúc.
Đăng Dũng biên tập
Nguồn: epochtimes