Hoa không chỉ đẹp, quyến rũ bởi hương sắc mà còn siêu lòng người bởi tác dụng chữa bệnh. Y học cổ truyền đã làm được điều đó khi nâng các loài hoa lên một tầm cao mới.
1. Hoa cúc vạn thọ
Đây là loài hoa rất được ưa chuộng và được trồng phổ biến tại Việt Nam, dùng để làm cây cảnh, trang trí sân vườn, phục vụ cúng, lễ và trưng bày trong dịp Tết Nguyên Đán. Đặc biệt người phương Đông coi hoa cúc vạn thọ là hình ảnh trường sinh và cuộc sống vĩnh hằng bởi những lợi ích mà loài hoa này mang lại.
Người dân hay dùng cúc vạn thọ để xua đuổi côn trùng có hại, dùng lá để chữa bệnh nấc cụt. Kinh nghiệm dân gian truyền lại, dùng hoa cúc vạn thọ đem giã nát, trộn với ít đường, hấp chín, nghiền nát, chắt nước uống, có tác dụng chữa kiết lỵ. Bên cạnh đó còn có tác dụng chữa ho gà và viêm phế quản nếu phối hợp cùng với hoa đu đủ đực, húng chanh, đường phèn, hấp chín, chắt lấy nước uống.
2. Hoa hồng làm thuốc đông y
Hoa hồng có rất nhiều loại nhưng theo các Y sĩ Y học cổ truyền Hà Nội thì hoa hồng đỏ (mai khôi hoa) và trắng (hồng bạch) thường được sử dụng để làm thuốc. Người ta thường thu hái những đóa hoa mới nở nếu dùng làm thuốc, bỏ đài, cuống, phơi trong bóng râm cho khô sau khi hái về. Khi hoa đã khô đem cất vào lọ kín, lưu ý không phơi nắng để khỏi tan hương vị của hoa.
Theo Y học cổ truyền, hoa hồng là vị thuốc thơm mát, không độc, có vị ngọt, tính ấm, tác dụng điều kinh, hoạt huyết, tiêu viêm, tiêu sưng. Hoa hồng trắng chứa nhiều vitamin, đường, tinh dầu nên thường được dùng để chữa ho trẻ em bên cạnh tác dụng nhuận tràng. Hoa hồng đỏ dùng để chữa kinh nguyệt không đều, bệnh bạch cầu, dùng làm huyết mạch lưu thông, đau ở vùng bụng dưới, vết sưng tấy, đinh nhọt và viêm mủ da.
3. Bồ công anh
Bồ công anh là một loại thảo dược được sử dụng để giải độc cơ thể. Nhưng đáng buồn là nhiều người lại coi loài hoa này như một loại cỏ dại. Nếu bạn bị vết loét sâu và nhiễm trùng nặng, thì bồ công anh sẽ là một giải pháp tốt. Chúng cũng có công dụng lợi tiểu và dùng để điều trị áp xe vú. Ngoài ra, bồ công anh còn có thể dùng làm thực phẩm xào ăn.
4. Hoa mai trắng loại trừ các bệnh về đường hô hấp
Hoa mai trắng hay còn được gọi là bạch mai hoa trong YHCT hay hoa mơ, hương mai, tuyết lý hoa lạp mai, lạp mộc, hoàng lạp,…
Theo các nghiên cứu y học hiện đại, hoa mai có tác dụng ức chế một số loại vi khuẩn như coli, trực khuẩn thương hàn, trực khuẩn lao trực khuẩn lỵ, phẩy khuẩn tả,… và thúc đẩy bài tiết dịch mật. Theo thầy thuốc y học cổ truyền, hoa mai trắng tính ấm, không độc, vị ngọt hơi đắng, có công dụng giải thử sinh tân, hóa đàm, khai vị tán uất, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như sốt cao phiền khát, ho, hầu họng sưng đau, viêm đường hô hấp, tức ngực, bỏng, lao hạch, chán ăn, chóng mặt, giúp long đờm.
5. Hoa mào gà
Hoa mào gà đỏ còn gọi là kê quan hoa. Theo y học cổ truyền, hoa có vị ngọt, tính mát, có tác dụng tiêu viêm, cầm máu.
Nước sắc hoa và hạt dùng để rửa mắt. Hoa và lá còn dùng để chữa sốt rét cho trẻ em. Hoa mào gà còn dùng để chữa khí hư, viêm đường tiết niệu.
6. Hoa cúc dại
Hoa cúc dại có đặc tính kháng virus và kháng khuẩn, đặc biệt tốt cho việc làm giảm dị ứng, điều trị vết thương, bỏng và các vết loét. Cúc dại cần ánh sáng mặt trời và đất thoát nước tốt.
7. Hoa hòe
Cây này còn gọi là hòe hoa, hòe mễ, lài luồng (Tày), tên khoa học là Sophora japonica L. Hoa hòe có màu vàng, vị hơi đắng, dài 0,5-0,8 cm, rộng 0,2-0,3 cm, cánh hoa vàng nâu, đài hoa vàng xám.
Nụ hoa đã phơi hoặc sấy nhẹ đến khô dùng làm dược liệu có tên khoa học là Flos Styphnolobii japonici imaturi. Nụ hòe có vị đắng nhạt, mùi thơm, tính bình; quả hòe có vị đắng, tính mát, đều có tác dụng hạ nhiệt, mát huyết, cầm máu, làm sáng mắt, bổ não. Ngày nay người ta còn biết thêm các tác dụng làm giảm tính thẩm thấu của mao quản, kháng chiếu xạ, hạ huyết áp.
Ngoài ra, hoa hòe có tác dụng lượng huyết, tăng cường sức đề kháng, giảm tính thẩm thấu của mao mạch, hồi phục tính thẩm thấu của mao mạch đã bị tổn thương. Thêm vào đó là tác dụng chống viêm, bảo vệ cơ thể chống chiếu xạ, hạ huyết áp, hạ cholesterol máu, cầm máu, chống kết tập tiểu cầu, quercetin làm giãn mạch vành, cải thiện tuần hoàn tim.
Theo y học hiện đại, nụ hòe và rutin được dùng làm thuốc cầm máu trong các trường hợp xuất huyết, đề phòng tai biến do xơ vữa mạch máu, tổn thương mao mạch, xuất huyết dưới da, xuất huyết có liên quan đến xơ vữa động mạch, xuất huyết võng mạc, tăng huyết áp.
Theo y học cổ truyền, hòe điều trị trường phong tiện huyết (đi ngoài ra máu tích phong nhiệt), niệu huyết, huyết lãm, băng lậu, trĩ ra máu, chảy máu cam, nôn ra máu, tăng huyết áp.
Biên tập: Thiên Hà
Nguồn: Tổng hợp