Sự khác nhau về sự tích Táo Quân ở Việt Nam và Trung Quốc
Lễ cúng ông Táo (Táo Quân) là truyền thống văn hóa vào dịp cuối năm cũ để đón năm mới ở Việt Nam và Trung Quốc. Mặc dù tên gọi giống nhau nhưng sự tích Táo Quân lưu truyền trong dân gian tại Việt Nam ra là khác biệt.
Sự tích Táo Quân ở Việt Nam
Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng sang Việt Nam ta đã được chuyển hóa thành huyền tích “2 ông 1 bà” – vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc. Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo.
Ở Việt Nam ta, sự tích Táo Quân được lưu truyền trong dân gian, rồi sau này mới ghi chép lại; do đó có những sự khác nhau về tình tiết. Nội dung chính được tóm tắt như sau:
Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền. Gia đình thường xuyên bất hòa. Một hôm, Trọng Cao giận quá đã đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin.
Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên lại nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.
Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao thì sẽ khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà tình cờ ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình; nàng liền nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo.
Phạm Lang gặp tình cảnh bất ngờ, thấy vợ nhảy vào đống rớm không biết tính sao; thế là liền nhảy vào đống rơm đang cháy rồi chết theo vợ.
Linh hồn của ba vị được đưa lên Thượng đế. Thượng đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho làm Táo Quân, gọi chung là: Định Phúc Táo Quân nhưng mỗi người giữ một việc:
Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Danh hiệu: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân
Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa. Danh hiệu: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần
Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa. Danh hiệu: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần.
Sự tích Táo Quân ở Trung Nguyên
Còn ở Trung Nguyên xưa, Truyền thuyết phổ biến nhất trong dân gian là chuyện Trương Táo Vương phát tích từ vùng Sơn Đông như sau:
Xưa kia, một gia đình họ Trương có hai vợ chồng già sống cùng con trai tên là Trương Lang và con dâu tên là Quách Đinh Hương. Trương Lang không thích làm ruộng, bỏ ra ngoài đi buôn bán. Đinh Hương ở nhà một mình trồng cấy, gánh vác công việc nhà chồng và chăm sóc cha mẹ chồng. Cuộc sống của nàng vì vậy mà vô cùng vất vả.
Sau 5 năm biền biệt bặt vô âm tín, vừa về đến nhà Trương Lang đã đuổi Đinh Hương và lấy Lý Hải Đường về làm vợ. Đinh Hương không nơi nương tựa được một bà lão đưa về nuôi. Về sau trở thành con dâu của bà và có cuộc sống viên mãn. Một năm nọ, gia đình Trương Lang gặp phải đám cháy lớn, tài sản bị thiêu rụi, người vợ sau cũng bị thiêu chết. Trương Lang bị thiêu mù đôi mắt, không còn cách nào đành lưu lạc xin ăn ngoài đường.
Một hôm, Trương Lang đến nhà Đinh Hương xin ăn. Nàng không chỉ mang cơm ngon canh ngọt ra mời; mà còn tặng thêm vàng bạc cho chồng cũ. Về sau, Trương Lang biết được người phụ nữ hảo tâm chính là vợ cũ của mình; trong lòng hối hận và xấu hổ vô cùng, bèn đâm đầu vào bếp lửa và bị chết cháy trong đó. Vì Trương Lang có tiền duyên với Ngọc Hoàng Thượng đế, nên sau khi chết được Ngọc Hoàng phong cho làm Táo Vương.
Tích Táo Quân từ các tài liệu sử sách
Theo tài liệu, sử sách ghi chép, nghi thức triều Chu, lễ cúng “lạp tế” vào cuối năm là phải cúng tế “tiên tổ ngũ tự”, mà Táo Quân chính là 1 trong “ngũ tự” đó.
Trong Lễ ký, “ngũ tự” gồm cúng tế 5 vị Thần là Môn (cổng, cửa), Hộ (cửa 1 cánh), Trung Lựu (phòng giữa), Táo (bếp) và Hành (đường đi).
Sách Hậu Hán thư có viết: “Ban đầu, họ Âm truyền đời tế tự Quản Trọng, gọi là Tướng Quân. Thời Tuyên Đế, Âm Tử Phương là người chí hiếu, có lòng nhân và cảm ân, vào ngày Lạp (mồng 8 tháng Chạp) nấu bếp lúc sáng sớm, Táo Thần hiện hình, Tử Phương bái thọ khánh. Nhà có dê vàng, bèn dùng để tế. Từ đó trở đi, nhanh chóng trở thành đại phú, ruộng có hơn 700 mẫu, xe ngựa nô bộc sánh với quốc quân. Tử Phương thường nói rằng: ‘Con cháu ta ắt sẽ lớn mạnh’. Đến 3 đời thì phồn vinh thịnh vượng, do đó sau này thường cúng tế Táo Thần vào ngày Lạp, và dùng dê vàng cúng tế”.
Các sách Phong thổ chí ghi chép phong tục thờ cúng Táo Thần đời Đường và Tống rất giống nhau; đồng thời phong tục lễ nghi đó được lưu truyền đến ngày nay. Thời đó cúng tế Táo Thần gồm: tụng kinh, cúng tế rượu trái cây, và ngựa “Táo mã” để tiễn đưa Táo Thần, còn cả thắp đèn “Táo đăng”. Người triều Đường theo phong tục cổ thì vào đêm cuối năm là làm thủ tục cúng tế đưa tiễn Táo Thần. Phong tục thời Tống là “Ngày 24 giao niên”, tức là ngày 24 tháng Chạp là ngày giao niên giữa năm mới và năm cũ, dân gian thờ cúng tiễn đưa Táo Thần vào ngày này.
Sự khác nhau về lễ cúng ông Táo ở Việt Nam và Trung Quốc
Lễ vật cúng ông Táo của Việt Nam gồm: mũ ông Công ba chiếc (hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà). Chiếc mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn; mũ dành cho Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyến màu sắc sặc sỡ. Hương, đèn nến, lọ hoa tươi, đĩa ngũ quả tươi. Ba bộ mũ áo, hia hài Táo Quân cùng tiền vàng.
Ngoài ra, người Việt còn cúng cá chép để các ông, bà Táo có phương tiện về chầu trời. Miền Bắc còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý “cá hóa long” nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ được “phóng sinh” (thả ra ao hồ hay ra sông) sau khi cúng. Ở miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Miền Nam thì lễ vật đơn giản hơn, họ chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy.
Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm mâm cỗ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng…) hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc…) để tiễn Táo Quân.
Còn lễ vật cúng ông Táo của người Trung Nguyên thường gồm: bỗng rượu, kẹo, bánh ngọt, mứt, cơm nếp, ngựa, kiệu và sớ. Người miền Bắc cúng vào ngày 23, người miền Nam cúng vào ngày 24. Người Trung Nguyên cho rằng, cúng ông Công ông Táo những thực phẩm ngọt, có đường, mật để cho các vị ấy ngọt miệng, lên Thiên đình sẽ thưa bẩm trôi chảy, hảo ý cho gia đình mình trước Ngọc Hoàng, như thế sang năm sẽ có vận tốt.
Thực ra, đây đều là tâm nguyện của con người mong muốn có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Kỳ thực, Thần Phật nhìn nhân tâm, chứ không phải rằng cúng tế lễ vật nhiều ít bao nhiêu mà được. Lễ cúng chỉ là thể hiện lòng thành kính với Thần Linh về nghi thức mà thôi. Người xưa có câu: “Người đang làm Thần đang nhìn”. Hàm ý rằng người nào thực sự là người tốt, làm việc tốt, làm việc gì cũng nghĩ đến người khác trước; thì trong mắt Thần linh, người đó đã là người tốt, cho dù họ không tế lễ cúng bái mà vẫn được bảo hộ và ban phúc báo vậy.
(Nguồn: NTD VN)