Chữ tượng hình Ai Cập: Ngôn ngữ của các vị thần
Chữ tượng hình Ai Cập là một trong những hệ thống chữ viết lâu đời nhất trên thế giới, có niên đại khoảng 5.200 năm. Trong tiếng Ai Cập cổ đại được gọi là “ngôn ngữ của các vị thần” và được tạo ra bởi trí tuệ của vị thần Thoth, chữ tượng hình rất quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ của hoàng gia và được sử dụng bởi các pharaoh quyền lực để ghi lại những thành tựu của triều đại .
Ngày nay, hàng triệu chữ tượng hình trong các văn bản thiêng liêng, quan tài, lăng mộ và đài kỷ niệm vẫn còn như như để ghi nhớ kỷ nguyên văn minh đã qua.
Hệ thống chữ viết của người Ai Cập cổ đại
Hệ thống chữ viết của người Ai Cập cổ đại là hệ thống chữ viết tượng hình với số lượng lớn các ký tự: 24 ký tự trong số đó đại diện cho những gì sẽ được công nhận là các chữ cái, những ký tự khác là viết tắt của các từ hoàn chỉnh hoặc sự kết hợp của các phụ âm. Hệ thống có từ 700 đến 800 các biểu tượng gọi là các nét khắc và không có dấu chấm câu hoặc chỉ ra vị trí đầu hay cuối của các từ hoặc câu.
Các nét khắc thường được đọc từ phải sang trái, trên xuống dưới và không sử dụng dấu cách hoặc dấu chấm câu.
Trên các bức tường của các ngôi đền và lăng mộ ở Ai Cập, chúng thường xuất hiện ở dạng cột.
Các thầy tu sử dụng chữ tượng hình để viết ra những lời cầu nguyện và văn bản liên quan đến cuộc sống sau khi chết và sự thờ phượng của các vị thần. Khi chuẩn bị lăng mộ của họ, nhiều công dân ở Ai Cập đã có những hướng dẫn bằng chữ tượng hình về thế giới bên kia được viết trên bề mặt của các bức tường lăng mộ và bên trong các quan tài.
Ký tự hình ô van trên quan tài là một loại tước hiệu riêng của hoàng tộc, thường ở dạng thuôn và có thể được tìm thấy trên các đài tưởng niệm Ai Cập và các tài liệu giấy cói cổ. Chữ khắc chữ tượng hình trên các bức tường đền thờ và các di tích khác được sử dụng cho mục đích trang trí và linh thiêng. Các phần của cuốn sách của người chết, một tập hợp các phép thuật mà người Ai Cập cổ đại tin rằng sẽ giúp họ ở thế giới bên kia, được khắc trên quan tài.
Các chữ tượng hình trên tường các đền đài, hầm mộ và đài tưởng niệm có mối quan hệ thần thánh tới sự “vĩnh hằng”. Chữ tượng hình có ý nghĩa quan trọng như một phương tiện giao tiếp với các vị Thần và người Ai Cập tin rằng ngôn ngữ của họ là một món quà của thần Thoth, thần Mặt trăng và nữ thần Seshat (thần cai quản về trí tuệ và văn tự).
Tầm quan trọng của các học giả Ai Cập cổ đại
Không phải tất cả mọi người ở Ai Cập cổ đại đều có thể đọc và viết chữ tượng hình, do đó khiến cho người dân thường không thể hiểu được ý nghĩa của chúng.
Chỉ có một nhóm những người có tri thức và họ được gọi là các học giả. Để trở thành một học giả, họ phải nhận được sự giáo dục ở một trường đặc biệt và phải mất nhiều năm để hoàn thành khóa học, họ phải bắt đầu học từ khi còn nhỏ, khoảng sáu hoặc bảy tuổi.
Người ghi chép là không thể thiếu đối với các Pharaoh. Những người ghi chép này cũng có thể liên quan đến việc ngôn ngữ Ai Cập cổ đại có thể tồn tại trong bao lâu kể từ khi các chữ tượng hình được coi là một món quà từ các vị thần – việc thay đổi hoặc từ bỏ chúng được coi là một hành động hiến tế.
Sự phát triển của Chữ viết của các thầy tu, Chữ bình dân và Chữ viết của giáo hội
Vào khoảng năm 2.700 trước Công nguyên (BC), chữ viết của các thầy tu (theo Hy Lạp cổ) ra đời, nó là một loại hình thức gần với hệ chữ viết alphabet. Chữ viết của các thầy tu nhanh chóng đã trở thành thông dụng, có vai trò hình thức chữ viết dùng cho các nghi lễ tưởng niệm. Nó tồn tại như là hệ chữ viết của Ai Cập khoảng hai thiên niên kỷ, hệ chữ viết bình dân được giới thiệu vào khoảng thế kỷ thứ bảy trước công nguyên.
Chữ bình dân được phát triển từ hệ chữ của các thầy tu và được đơn giản hóa, dễ đọc phù hợp với toàn dân Ai Cập cổ. Nó được sử dụng cho các mục đích hành chính và tài liệu văn học, chuyên luận khoa học, tài liệu pháp lý và các hợp đồng thương mại. Nó đánh dấu một sự phát triển mới về ngôn ngữ bởi vì nó là một hình thái ngôn ngữ địa phương cùng với hệ thống ngữ pháp của riêng mình. Trong thời kỳ Greco – Roman (chiến tranh Hy lạp – La Mã) chữ bình dân trở thành thông dụng và chữ của các thầy tu chỉ được sử dụng trong các văn bản tôn giáo.
Không thể biết chính xác ngôn ngữ cổ Ai Cập được phát âm thế nào, nhưng qua nghiên cứu ngôn ngữ phổ biến của giáo hội, hệ chữ alphabet đầu tiên của ngôn ngữ Ai Cập, có thể có được những ý tưởng tương đối chính xác. Chữ viết của giáo hội được viết trong hệ alphabet Hy Lạp và có sáu ký hiệu được dùng từ hệ chữ bình dân. Đó là ngôn ngữ của thời đại Thiên chúa giáo ở Ai cập từ năm 395 – 641 sau Công nguyên.
Chữ viết của giáo hội đã dần thay thế chữ bình dân và được sử dụng thông dụng trong hệ chữ viết Ai Cập. Nó được cấu thành từ hàng loạt các hình thái ngôn ngữ trong đó có ít nhất sáu ký tự hệ ngôn ngữ viết và đã chấm dứt sử dụng vào thế kỷ 14, khi những người Ả-rập chinh phục Ai Cập và ngôn ngữ Ả-rập trở thành ngôn ngữ thống trị. Ngôn ngữ và chữ viết của giáo hội chỉ được sử dụng hạn chế trong các nghi lễ tôn giáo ở các nhà thờ tôn giáo chính thống.
Sau khi Đế chế La Mã bắt đầu các quy định của họ đối với dân tộc Ai Cập, hệ chữ tượng hình bắt đầu suy thoái. Vào khoảng thế kỷ thứ tư sau công nguyên, Ai Cập đã cải đạo theo Thiên chúa giáo và tiếp thu hệ chữ alphabet Hy Lạp và vì vậy Chữ viết của giáo hội, hình thái chữ viết truyền thống của đất nước đã không được sử dụng. Bản khắc chữ tượng hình cuối cùng đã được thực hiện trên cổng một ngôi đền ở Philae vào năm 396 Công nguyên.
Tấm đá Rosseta nổi tiếng
Không có ai đọc được hệ chữ Ai Cập cổ trong suốt 1.400 năm, cho đến khi nhà nghiên cứu người Pháp, ông Jean-Francois Champollion, cha đẻ của Ai Cập học, đã giải nghĩa được tấm đá Rosseta vào năm 1822. Tấm đá Rosseta có khắc một sắc lệnh năm 196 trước Công nguyên viết bằng 3 ngôn ngữ bởi các thầy tu vùng Memphis.
Nội dung của tấm đá được viết bởi một nhóm các thầy tu Ai Cập để ca ngợi Pharaoh Ai Cập. Nó được viết bằng ba ngôn ngữ, bao gồm chữ tượng hình Ai Cập sử dụng để viết các tài liệu tôn giáo, chữ Hy Lạp – một loại chữ viết các luật lệ vào thời gian đó, và chữ bình dân. Phải mất 20 năm để giải mã tấm đá Rosseta này sau khi được khai quật vào thời Napoleon chinh phục Ai Cập năm 1799.
Ngày nay, chữ tượng hình Ai Cập vẫn tồn tại trong hai hình thức: Thông qua 6 nét (6 glyph) chữ bình dân được thêm vào bảng chữ cái Hy Lạp để viết tiếng Coptic (ngôn ngữ cho giáo hội), và hình thức gián tiếp chính là nguồn cảm hứng cho hệ alphabet gốc đầu tiên, cũng là tiền thân của các hệ alphabet được sử dụng rộng rãi sau này, bao gồm cả alphabet La Mã. Ngày nay ngôn ngữ Ai Cập thỉnh thoảng được sử dụng như ngôn ngữ nói trong các nhà thờ.
Có thể thấy, ngôn ngữ Ai Cập cổ đại biểu trưng cho các giá trị đạo đức và nền văn hoá tín Thần của người Ai Cập. Họ tin vào mối liên hệ mật thiết giữa con người và các vị Thần, cũng như sự “vĩnh hằng” mà một linh hồn có thể đạt được khi kết nối với thế giới tâm linh. Theo thời gian, ngôn ngữ mới ra đời phù hợp với hệ tư tưởng mới, những giá trị ẩn chứa trong bộ chữ tượng hình gốc của họ mai một đi. Đó dường như là quy luật của sự phát triển đối với một nền văn minh. Tuy nhiên, không thể phủ nhận, để hiểu về lịch sử và văn hoá chính thống của nhân dân Ai Cập, chúng ta cần hiểu về ngôn ngữ Ai Cập cổ đại.
Biên tập: Thiên Hà
Nguồn: ancient