Đại Việt cũng có cao nhân: Hàng yêu phục ma, bảo hộ người lương thiện
Thuở xưa Đại Việt từng được thầy phong thủy Cao Biền đánh giá là vùng đất địa linh nhân kiệt, có thể sinh ra vô số bậc kỳ tài, cũng có thể triển hiện rất nhiều điềm lành, linh ứng khôn cùng.
Chúng ta đều biết rằng, trong văn hóa Trung Hoa có rất nhiều câu chuyện về những bậc cao tăng đại đức và các thần tích mà họ lưu lại cho người đời sau, bao gồm cả việc hàng yêu phục ma và cứu độ thế nhân.
Tuy nhiên, ít người biết rằng trong các truyền thuyết nước Nam ta cũng có khá nhiều ghi chép về những nhà tu hành có đạo hạnh cao thâm, cũng từng vận dụng thần thông pháp lực để trừ ma vệ đạo, bảo hộ chúng sinh.
1. Thiền sư Hương Hải hàng phục ma binh, Thần linh cũng phải kính trọng
Theo tài liệu “Hương Hải thiền sư ngữ lục giảng giải”, Hương Hải thiền sư sống vào thời kỳ Trịnh – Nguyễn thế kỷ 17-18, từng làm quan cho Chúa Nguyễn ở Đàng Trong, về sau vì lòng kính Phật mà xuất gia tu hành. Ngài cùng một số đồ đệ đi thuyền ra đảo Tim Bút La ngoài biển Đông để thanh tu. Chính tại nơi này, vô số yêu ma đã đến quấy nhiễu con đường đắc đạo của ngài.
Một đêm nọ, gió cuốn ầm ầm, cây gãy đá bay, đến lúc canh hai, các đồ đệ của thiền sư nhìn thấy một bóng ma lớn, cao chừng 8 thước, hung hãn chạy vào rồi biến mất. Tiếp đó, một con mãng xà khổng lồ không rõ từ đâu đến quấn chặt lấy thân thiền sư. Thiền sư cố nhích đến bàn Phật, miệng lẩm nhẩm niệm kinh, lát sau con rắn ấy biến mất.
Cứ như vậy, hàng đêm đều xuất hiện các dị tượng khác nhau, có khi thì mái nhà bị gió lớn thổi tung lên, có khi thì đang yên tĩnh thanh vắng bỗng đâu nghe âm thanh rợn người như hàng ngàn hàng vạn con mèo cùng kêu lên, khiến ai nấy dựng đứng cả tóc gáy.
Lại qua một thời gian, đêm nọ thiền sư Hương Hải đang tọa thiền trước tượng Phật, bỗng nhiên trước mặt ngài xuất hiện một đội quân ma tầng tầng lớp lớp không biết bao nhiêu mà kể, bao vây ngài vào giữa, kẻ cầm giáo mác, kẻ quắc mắt nhìn, kẻ dắt theo hổ báo voi ngựa, đều lăm lăm muốn tấn công ngài. Thiền sư đau bụng kịch liệt, mở mắt ra không thấy tượng Phật nữa, xung quanh chỉ toàn là ma quỷ và yêu tinh, diện mạo cực kỳ hung ác.
Thiền sư Hương Hải vẫn không sao nhãng tâm thần, ngài cố gắng trì chú, nhưng vẫn không linh nghiệm. Ma quỷ liên tiếp hò hét không cho ngài nhập tĩnh, thiền sư bèn giữ vững ý chí như kim cương, quyết lòng đốt cháy tam độc tham sân si, thân ngài như được bao bởi một bức tường lửa, tà ác không thể nào tiến đến gần được. Qua một lúc rất lâu, chúng ma đều biến mất, hoặc bị tiêu diệt, hoặc đã bỏ chạy, khung cảnh nơi Phật đường lại quang minh sáng tỏ như trước.
Hôm sau thiền sư cho rằng hòn đảo này là ác địa, e rằng khó lòng tu hành, bèn bàn với các đồ đệ rời khỏi đây để quay về đất liền.
Thiền sư quay về chưa bao lâu thì có một người dân trên đảo đến tìm ngài và nói: “Đảo chúng tôi vốn có ba miếu thờ Thần, là Cao Các đại vương, Phục Ba đại tướng quân và Bô Bô đại vương. Hôm rồi các Thần cùng hiện lên, nói rằng:
‘Đêm đó ma tinh tác quái làm hại pháp sư, chúng ta ngồi yên ở bên quan sát xem thắng bại thế nào. Khi ấy pháp sư biến hóa hình tướng, thần thông rất lớn, chúng ma kinh khiếp đều phải rút lui. Chúng ta thấy vậy rất khâm phục pháp sư đạo hạnh kiêm toàn, có bậc Thánh như vậy về đất này làm trụ trì thì nơi đây dù hiểm ác cũng trở thành phúc địa, dân làng mau đi thỉnh pháp sư quay lại đây’.
Bởi đó là chỉ thị của Thần linh nên tôi mới tới đây thỉnh ngài về đảo của chúng tôi tu hành.”
Thiền sư Hương Hải nhận lời khẩn cầu, bèn dắt các đồ đệ ra đảo Tim Bút La tu hành thêm 8 năm nữa.
Câu chuyện thiền sư Hương Hải nhất tâm tu hành, dùng ý chí kim cương bất động mà đánh lui cả đạo quân ma quỷ, đến các bậc Thần linh nhìn thấy cũng phải bội phục, cũng tựa như Đức Phật năm xưa tĩnh tọa dưới cội bồ đề mà đánh bại Ma Vương, quả là một truyền thuyết đáng trân quý và cũng đáng tự hào của dân tộc Việt.
2. Pháp sư Du Văn Tường trảm quỷ Xương Cuồng
Theo sách “Lĩnh Nam Chích Quái”, từ đời thượng cổ ở đất Phong Châu đã có cây chiên đàn cao hơn ngàn trượng, cành lá xum xuê, trải qua năm tháng lâu dài hấp thụ linh khí mà trở thành yêu tinh, thần thông quảng đại, hại người nhiều vô kể.
Lúc bấy giờ thủy tổ của tộc Việt là Đức Kinh Dương Vương dùng lễ nhạc đánh bại yêu tinh, khiến nó khiếp sợ mà quy hàng, rồi trốn về phía Tây Nam. Tuy nhiên ác tính của loài yêu này không trừ, qua một thời gian nó lại xuất hiện hại người, dân xứ ấy vì khiếp sợ nên lập miếu thờ gọi nó là “thần Xương Cuồng”, hàng năm vào ngày 30 tháng chạp phải nộp người cho nó để đổi lấy yên ổn.
Mãi đến tận thời Đinh Tiên Hoàng, vua là người kính Phật và trọng Đạo, các nơi đều biết tiếng. Pháp sư Du Văn Tường vốn người phương Bắc, đã chu du qua các nước, rồi ngụ tại nước Nam ta, khi ấy đã ngoài 80 tuổi, đạo hạnh cao thâm, đức độ hơn người, ai cũng khen là bậc đại đức. Đinh Tiên Hoàng rất kính trọng, lấy lễ thầy trò mà thỉnh pháp sư vào cung.
Trong lúc nói chuyện vua có nhắc đến “thần Xương Cuồng”, pháp sư cho rằng đó chỉ là quỷ quái chứ không phải Thần linh, bèn quyết định vì dân trừ hại, diệt trừ tận gốc loài yêu tinh ấy.
Pháp sư sai người bày biện đồ cúng tế linh đình, mở hội múa hát, dụ quỷ Xương Cuồng ra mặt. Quả nhiên Xương Cuồng xuất hiện, vì mải mê hưởng dụng vật cúng và xem hát nên không phòng bị, pháp sư Du Văn Tường bèn niệm thần chú khiến nó và đám tiểu yêu bị định cứng lại không cử động được. Sau đó, pháp sư dùng trảm yêu kiếm lần lượt trảm Xương Cuồng và đám tiểu yêu.
3. Vị đạo nhân dùng thần thông diệt trừ dâm quỷ
Theo tập truyện “Truyền Kỳ Mạn Lục”, vào năm Canh Ngọ niên hiệu Khai Hựu nhà Trần (1330), có một ngôi chùa bên sông, cạnh chùa có một cây gạo đã sống hơn trăm năm, chính là nơi cư ngụ của những tên dâm quỷ hại người.
Một đêm nọ có vị đạo nhân đến ngủ lại chùa, nửa đêm nghe tiếng đập cửa, nhìn ra ngoài thì thấy một đôi nam nữ không mặc y phục, vừa hò hét vừa chạy khắp nơi. Đạo nhân kinh hãi, cho rằng đây là đôi trai gái lẳng lơ, trong lòng khinh thường nên không để mắt đến.
Sáng hôm sau, đạo nhân mang sự việc này ra kể với cụ già lớn tuổi trong làng, than rằng: “Sao các cụ lại để cho dân phong nơi này tồi tệ đến mức ấy?”
Cụ già đáp: “Ngài ở nơi khác đến nên chưa rõ, chúng đâu phải là người, mà là ma quỷ ngụ trên cây gạo kia, hàng đêm đều hiện lên hại người, suốt mấy năm nay chúng tôi không lúc nào được yên ổn. Hễ ai có ý muốn chặt bỏ cây gạo để diệt trừ hang ổ của chúng thì liền gặp phải đại họa”.
Đạo nhân nghe rồi trầm ngâm nói: “Cứu người chính là trách nhiệm của người tu Đạo, bần đạo đã nhìn thấy việc này rồi, nếu vẫn làm ngơ thì có khác gì khoanh tay đứng nhìn người khác chết đuối?”
Rồi đạo nhân hội họp dân làng lại, bày bàn cúng tế, đốt ba đạo bùa, một dán lên cây gạo, một thả xuống sông, một ném lên không trung, rồi quát lớn: “Những tên dâm quỷ, càn rỡ lâu ngày, xin bậc Thần linh, trừ loài dơ bẩn, phép không chậm trễ, hỏa tốc phụng hành”.
Tức thì mây gió nổi lên ầm ầm, dưới sông nước chảy cuồn cuộn, cát bụi bay mù mịt trời đất, những người đứng cạnh cũng không trông thấy nhau. Qua một lúc trời quang mây tạnh, mọi người nhìn lại thì thấy cây gạo đã bị đánh bật gốc, cành cây gãy nát vụn.
Kế đó trên không trung nghe có tiếng roi vọt và tiếng kêu khóc, mọi người ngẩng đầu nhìn thì thấy có đến mấy trăm binh sĩ đầu trâu mặt ngựa đang gông trói hai người mà dẫn đi, nguyên đó chính là hai tên dâm quỷ đã bị đưa về Âm Ty xét xử.
Dân làng mừng rỡ, mang rất nhiều tiền vàng đến tặng vị đạo nhân để tạ ơn, nhưng đạo nhân một mực khước từ, tiếp tục đi vào non sâu để tu Đạo.
Thiên Hà biên tập
Nguồn: ientri.nett