Hết thảy cổ thư đều giống nhau ở chỗ vạch rõ tôn chỉ, sách “Trung Dung” cũng không phải là ngoại lệ. Bởi vậy, phần kết luận của chương đầu tiên trong “Trung Dung”, hay cũng chính là hai câu cuối cùng của chương đó, là hết sức trọng yếu.
Nó trực tiếp nói cho chúng ta biết “Trung” là phép tắc cơ bản mà Nho gia nhận thức rằng thiên hạ phải tuân theo, đồng thời cũng nói cho chúng ta biết biện pháp đạt được “Trung” chính là “Hòa”. Khi hiểu rõ được phép tắc này, thì cũng ngộ thấu ý nghĩa chân thực của câu “Quân tử hòa nhi bất đồng” mà Khổng Tử giảng.
Nguyên văn như sau: “Hỉ, nộ, ai, lạc chi vị phát, vị chi trung. Phát nhi giai trung tiết, vị chi hòa. Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã. Hòa dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên.”
Thoạt nhìn, có thể thấy rằng “chi, hồ, giả, dã” rất khó lý giải. Thật ra đây chẳng qua là khác biệt trong ngôn ngữ của người xưa so với ngày nay mà thôi, đạo lý thật ra lại rất giản đơn dễ hiểu. Đại ý nói rằng: những tình cảm hỉ nộ ai lạc v.v. của con người, khi còn chưa biểu lộ ra, chính là đang ở trong trạng thái “Trung”.
Tình cảm một khi phát tiết ra, thì cần tiết chế, dùng hết khả năng mà điều tiết về trạng thái Trung, thì chính là Hòa. Trung, là phép tắc căn bản nhất mà thiên hạ phải tuân theo. Hòa là biện pháp có thể làm cho đạt được cái trạng thái Trung này. Sự vật đạt được trung hoà, thiên địa tất nhiên sẽ sắp xếp về vị trí, thứ tự ngay ngắn, âm dương điều hòa, tự nhiên thai nghén vạn vật, sinh cơ bừng bừng.
Ở đây lấy hỉ nộ ai lạc của con người làm ví dụ, là để mọi người lý giải được tốt hơn cái tiêu chuẩn “Trung” chế ước vạn vật vạn sự này có trạng thái và biểu hiện như thế nào, chứ không phải chỉ có tình cảm của con người mới cho thấy sự tồn tại của Trung.
Nho gia thật ra là học vấn của Đạo gia ở tầng thứ con người này, bởi vậy, mọi người có thể coi Trung như trạng thái thể hiện của Đạo mà Đạo gia giảng ở nơi thế gian con người, cũng chính là thể hiện của Đạo ở nơi con người. Chúng ta thông qua nó mà lý giải Đạo mà con người có thể cảm giác được. Vì vậy Nho gia gọi là Trung.
Nói một cách minh xác thì điều này nói cho chúng ta một biện pháp hết sức thực dụng để xử lý các việc. Bất kể chúng ta gặp phải chuyện gì, đều phải nhớ kỹ, thiên hạ vạn sự vạn vật, đều bị chế ước bởi phép tắc căn bản hoặc tiêu chuẩn căn bản “Trung” này, lệch khỏi nó sẽ dần dần xảy ra vấn đề, lệch càng xa vấn đề càng lớn, cho nên, nếu trong lòng lúc nào cũng nhớ kỹ nó, thì sẽ biết giải quyết thế nào khi vấn đề xảy ra. Đó chính là một khi lệch khỏi quỹ đạo, thì lấy trạng thái Trung làm mục tiêu, tiến hành quy chính, quá trình này gọi là Hòa.
Mà Hòa lớn nhất trong thiên địa, chính là âm dương điều hòa, Trung y chữa bệnh chính là thể hiện ra sự vận dụng của đạo lý này, vô luận dùng biện pháp gì, mục đích chính là điều hòa âm dương thân thể người, đạt được trạng thái cân bằng Trung, tức âm dương cân bằng, tự nhiên bệnh sẽ khỏi.
Mà Đạo gia coi thân thể người là một tiểu vũ trụ, cho nên, lớn đến như thiên địa, nhỏ đến như thân thể người của tự mình, đều là đạo lý này, vạn sự vạn vật thế gian con người, đều không thể chỉ chốc lát lệch khỏi quỹ đạo Trung, quá trình lệch khỏi quỹ đạo chính là quá trình dần dần xảy ra vấn đề, đây là lấy các hiện tượng tự nhiên mà chúng ta có thể thấy để minh họa cho đạo lý này. Tương đối dễ lý giải. Cho nên, ở đây, lấy tình cảm và thiên địa là những điều thường thấy nhất làm ví dụ mà nói về đạo Trung Dung.
Chúng ta đề cập đến lý giải phổ biến nhất đối với Trung Dung chính là không đi đến cực đoan, bởi vì cái gì quá cũng dẫn đến không phù hợp, thiếu thốn và thừa mứa đều có thể làm sự vật mất đi trạng thái thăng bằng, nghiên qua một bên, sẽ xảy ra vấn đề. Cho nên quỹ đạo Trung này, là không thể thay đổi.
Cũng chính là Trung không thiên sai, dung không di dịch”. Chữ Dung của Trung Dung, đồng âm với dụng (trong sử dụng, thực dụng), bởi vậy, cũng được con người hiểu là đạo lý thực dụng, phương pháp sử dụng cái Trung. Đó là trí huệ thực dụng [mà người ta] có thể nắm giữ và thực hiện cụ thể.
Chỉ có hiểu nội hàm của đạo Trung Dung, chúng ta mới có thể hiểu Khổng Tử giảng “Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa” rốt cuộc là có ý gì. Những lời này có nhiều kiểu lý giải. Chúng ta lấy một ví dụ.
Tỷ như quân tử giảng lấy đạo đức giáo hóa bách tính, nhưng căn cứ rằng con người ta là khác nhau, làm gì cũng có mức độ, không để cho người khác phải chịu áp lực vượt quá giới hạn; họ là suy xét đến điều kiện thực tế của thân phận, tuổi tác, bối cảnh văn hóa dân tộc, hoàn cảnh v.v. và năng lực lý giải của những người khác nhau để mà thực thi giáo hóa, đây là thực tiễn Trung Hòa, khiến cho bản thân mình cùng với người tiếp thụ giáo hóa đạt được một điểm thăng bằng của Trung, làm cho người kia dễ dàng tiếp thu, cảm thấy thân thiết tự nhiên, lúc này, chính là đạt được Hòa cũng chính là trạng thái chân Thiện, tự nhiên việc đạo đức giáo hóa làm được hữu hiệu, không dễ gì mà thất bại. Trạng thái triển hiện ra chính là không giáo điều, không bới chọn, hiện nay người ta gọi là dạy theo trình độ, và hữu giáo vô loại (việc giáo dục không lựa chọn giai tầng, thành phần xã hội).
Khổng Tử suốt đời đề xướng và truyền bá điều nhân nghĩa, là xoay chung quanh đạo Trung Dung “Quân tử hòa nhi bất đồng” trong thực tiễn, có thể cùng người bất đồng duy trì quan hệ hòa thuận phối hợp. Bởi vậy bậc quân tử khi ở chung với người, sẽ không yêu cầu người khác cần phải giống như mình, tôn trọng lý giải người khác đồng thời cũng sẽ giữ tiêu chuẩn làm người và cảnh giới tư tưởng độc lập của bản thân, cũng chính là sẽ không lẫn lộn với người khác, không như nước chảy bèo trôi. Đồng thời còn có sự bao dung, rộng lượng cùng với khí độ trí huệ.
Cách làm của tiểu nhân, lại chính là tương phản, họ “đồng nhi bất hòa”, là phản trung dung, lúc nào việc gì cũng yêu cầu đối phương đồng thuận với tâm nguyện bản thân, coi là đồng dạng giống nhau, bằng không thì oán hận, bài xích, tuyệt đối không biết dung nhẫn với người khác khi họ không có cùng cách làm và quan điểm với mình.
Thể hiện ra chính là sự bất hòa, chính là mâu thuẫn, chính là bất thiện, bởi vậy, cổ nhân giảng hòa thiện, người mà bất hòa, cũng sẽ không thiện đãi người khác. Dễ đi đến cực đoan, lòng dạ hẹp hòi, không tôn trọng lý giải và không có tâm bao dung, tất nhiên lệch khỏi con đường ngay chính, rời xa Trung đạo, có thể khiến sự nghiệp nhân sinh đi đến bước đường cùng, dẫn đến thất bại. Minh bạch đạo lý này, chúng ta tự nhiên có tham chiếu, sẽ không làm tiểu nhân nữa.
Cho nên nói, Khổng Tử am hiểu sâu đạo Trung Dung. Không hiểu đạo này, cũng sẽ không hiểu tri thức của Khổng Tử.
Đạo lý này tuy rằng giản đơn, nhưng ở trong cuộc sống cụ thể khi đụng tới các loại vấn đề ở các lĩnh vực khác nhau, vận dụng cụ thể thì thiên biến vạn hóa. Bởi vậy, người xưa một đời đều trau dồi học tập, đều không ngừng đưa ra thắc mắc khi gặp vấn đề nhân sinh nan giải, lặp đi lặp lại quá trình thực hành và vận dụng, để lại cho chúng ta kinh nghiệm quý báu và giáo huấn, khiến cho Trung Dung trở thành một môn thực hành hữu hiệu và biến hóa vô cùng, là loại tri thức không có điểm dừng.
Nguồn: Chánh Kiến net