Kinh Dịch viết: “Thiên Địa chi đại đức viết sinh”, ý muốn nói đức lớn của trời đất là sinh, là sự sống, bao đời nay thiên hạ ngưỡng mộ nhân từ, người nhân từ làm ra việc gì cũng tốt.” Người xưa tin tưởng rằng Thượng đế đã tạo ra tất cả mọi thứ và ban tặng cho nó với đẹp là đức hạnh. Công thức hóa một đạo luật cho nó, tạo ra một trái tim nhân từ trong vạn sự vạn vật.
Từ quan điểm của vũ trụ khởi hành, văn hoá truyền thống chú ý đến chăm sóc tinh thần, yêu cầu mọi người vì lợi ích của người khác, giúp đỡ người khác và trân trọng cuộc sống, tất cả đều tồn tại hài hoà .
Tư tưởng nhân từ là quan niệm cốt lõi của văn hóa Nho giáo, người ta cho rằng người nhân từ có thể hòa nhập với thế gian và vạn vật , đạt được nhân cách của một chính danh quân tử. “Sách Chu Dịch” nói: “ Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất phi tức; địa thế khôn, quân tử dĩ hậu đức tái vật”. Ý muốn nói Thiên hành kiện, quân tử lấy không ngừng vươn lên! Tinh thần cơ bản của cốt cách giữa con người và trời đất nằm ở sự “Vô ngã”.
Quân tử là mẫu người nên noi gương và làm theo mệnh trời. Ý kiến chung cho rằng sự vận động của các thiên can phản ánh khí chất ngời ngời, quý nhân nên không ngừng nỗ lực làm tốt trách nhiệm của mình, chí khí rộng như đất, đức sâu như đất thì mới có thể phát triển được vạn vật, mang theo vạn vật, chứa đựng vạn vật, và làm cho nó thịnh vượng.
Đức Khổng Tử đã so sánh “nhân từ” với “mệnh”, tức là đạo đức cao của con người và mệnh của Trời. Khổng Tử nói: “ Trời sinh đức tự nhiên”, “Lễ nghi là gì nếu một người không nhân từ? Hạnh phúc là gì nếu một người không có lòng nhân từ?”. Làm bất cứ điều gì với lòng nhân từ là cơ sở và điều kiện tiên quyết.
Khổng Tử nói về việc làm việc gì cũng nghiêm túc, đối xử nhân hậu, trung thực, tử tế và không làm tổn thương người khác.
Khi Phàn Trì hỏi về lòng nhân từ, Khổng Tử nói: “yêu quý người khác” – Người nhân đức yêu thương mọi người, lại yêu thương vạn vật, tình yêu thương rộng lớn vô biên; Nhan Uyên hỏi về lòng nhân từ, Khổng Tử nói: “Người nhân đức yêu thương người khác mà không phải yêu thương bản thân, đó chính là phép tắc của Nhân”. Khổng Tử cũng nói: “Người nhân từ, luôn muốn chủ động đứng lên tiếp cận và bảo vệ người khác, nhìn thấy những hoàn cảnh khó khăn sẽ ra tay giúp đỡ…”
Mọi người đều được tôn trọng, nguời xuất hiện luôn tiếp đón như một thượng khách, trở thành người có ích cho xã hội. Tất cả đều được tôn trọng. Khổng Tử nói về việc làm việc gì cũng nghiêm túc, đối xử nhân hậu, trung thực, tử tế và không làm tổn thương người khác.
Mạnh Tử cho rằng đức hạnh và lương tâm thuộc về bản chất của con người. Làm người thì phải giữ thiện, không ngừng nâng cao cảnh giới đạo đức: “Ai cũng có lòng thương người; ai cũng có lòng trắc ẩn; ai cũng có lòng tự trọng…”
Mạnh Tử liên kết trách nhiệm đạo đức với việc thiết lập cuộc sống của chính mình, ông nói: “Một người quân tử không chỉ là đối xử tốt với người khác”. Ông tin rằng đức tính cao nhất của một người quân tử là cùng làm điều tốt với người khác. “Người nhân đức, đó là danh xưng yêu thương người khác”.
Đổng Trọng Thư có viết: “Muốn làm người nhân đức, cần phải có tình thương, hiểu được yêu thương người khác. Lòng nhân ái sâu sắc bao la, rất nhiều người được hưởng ân huệ, thì bản thân đã càng tiếp cận với Thánh nhân. Kẻ chỉ yêu mình, mọi người xa lánh, thân thích tránh xa, cuối cùng đi vào diệt vong”.
Các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại cho rằng “sinh” (tạo ra sự sống) là “nhân từ” và tốt lành. Vì vậy, dù là văn học, nghệ thuật hay các môn nghệ thuật khác, họ đều nhấn mạnh đến biểu hiện của “sinh khí” và “ vận chuyển” của vạn vật trên đời, và ca ngợi vẻ đẹp của sự hài hòa và cuộc sống tốt đẹp của đất trời.
Sách Đại học nói: “Con đường của một trường đại học là để làm sáng tỏ đức hạnh”. Văn hóa truyền thống rất coi trọng tinh thần “trách nhiệm” của con người, và “coi thiên hạ là trách nhiệm của chính mình” và tất cả đã trở thành trách nhiệm của người dân và là mối quan tâm của họ đối với đất nước và nhân dân. Tăng Tử nói: “Kỹ năng không thể không ngừng, trách nhiệm nặng nề và con đường dài, loại trách nhiệm này không quan trọng lắm sao? Vì vậy, một người quân tử phải có bản lĩnh vững vàng.
Người xưa cho rằng quá trình đọc sách và học hỏi cũng là quá trình không ngừng hoàn thiện đức hạnh tu dưỡng của bản thân mình. Người ta học để tu thân, học để dưỡng Đức, học để thành người. Việc học tập thành công hay thất bại mấu chốt là ở chỗ thái độ có siêng năng, nghị lực có cứng cỏi hay không. Chỉ có kiên trì bền chí mới là phương pháp học tập tốt nhất.
Các bậc hiền nhân xưa nay làm mẫu mực cho thế hệ mai sau, ví như “ngũ đế ” thời xưa trị vì bình thiên hạ, nội công khiến dân chúng thời bấy giờ ý thức tôn trọng đạo đường, thiên hạ thái bình; Khổng Tử chú ý đến việc tu dưỡng đạo đức và dành cả cuộc đời của mình để thúc đẩy đạo đức và công lý; Đường Thái Tông nghiêm khắc trong tự kỷ luật, quản trị tốt và yêu thương mọi người, và đã tạo ra một thế hệ thịnh vượng trong “chế độ cai trị của Trinh Quán. Nhân từ vì nước “khiến muôn dân lưu luyến, ngưỡng mộ; câu nói nổi tiếng của Sở Bắc Tống thời Bắc Tống: “lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ,” đã được người đời ca tụng với lí tưởng cao cả trong quá khứ.
Trong hàng nghìn năm, văn hóa truyền thống dựa trên việc đề cao tâm tính, nhân từ và theo đuổi cảnh giới “hài hòa giữa con người và thiên nhiên” đã điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người. Đạo Trời công bằng, trừng trị tội ác và phát huy tốt; Đạo Phật dạy Phật pháp vô biên, lòng trắc ẩn và sự cứu rỗi phổ quát khắp mọi nơi, và dạy con người sống tốt. Tất cả các tôn giáo chính thống trong lịch sử đều thông qua đánh thức lương tâm và bản chất tiên thiên của sinh mệnh khuyến khích mọi người theo đuổi sự thật, để cuộc sống có một tương lai tươi sáng.
Nguồn Soundofhope Hằng Tâm