Người con gái hiếu thảo làm cảm động thần linh, lòng hiếu thảo chân thành vượt qua thời gian và không gian để được ban phước.
Trong triều đại nhà Minh và nhà Thanh, có một khu nhà vườn bên ngoài Sùng Văn Môn ở Bắc Kinh, có hàng ngàn hộ gia đình ở khu vực này. Một trong số họ là một ông già với một cô gái trẻ, và cả hai sống nương tựa vào nhau.
Ông cụ mắc bệnh hen suyễn, càng về già các triệu chứng càng nặng. Năm nay ông nằm trên giường thở hổn hển, thở hổn hển đến mức như gầm lên, các bác sĩ thăm khám đều nói rằng không thể chữa khỏi. Người con gái hiếu thảo luôn nở nụ cười nhẹ nhõm khi hầu hạ cha khiến ông cảm thấy thanh thản hơn, nhưng trong lòng lại lo lắng, không biết làm cách nào để ông khỏi bệnh.
Vô tình, một hôm cô gái gặp một bà lão hàng xóm đang tập hợp một nhóm phụ nữ lên núi Thái Sơn thắp hương. Cô hỏi bà về lợi ích của việc đi thắp hương ở đó. Bà cụ bảo có người đau ốm, có người không có người thừa kế … Mỗi người đều có ý nguyện cầu phù hộ, trên đỉnh núi Thái Sơn có Miếu (sau được mở rộng đổi thành Cung) thờ một vị nữ Thần rất linh thiêng.
Người con gái hiếu thảo hỏi về cuộc hành trình đến núi Thái Sơn và được biết rằng ở xa hơn một trăm dặm, và sau đó hỏi rằng một dặm là ba trăm sáu mươi bước. Cô ấy đã giữ nó trong lòng.
Đêm hôm đó, sau khi cha già ngủ say, người con gái hiếu thảo lặng lẽ bước ra sân, thắp một nén nhang rồi đi quanh sân, vừa đi vừa quỳ xuống cúng bái, trong lòng thầm nhủ: “Vì con còn ít tuổi và chỉ có một mình.
Cha tuổi cao sức yếu, đang ốm nặng nằm trên giường bệnh, trong nhà không có ai chăm sóc nên con không thể lên núi thắp hương, cúng bái Nương Nương, con xin lần theo từng bước từ đây lên chùa quỳ lạy trong sân, như bản thân con thật sự đến núi Thái Sơn và tận mắt chiêm ngưỡng tượng Nương Nương, cầu mong Nương Nương phù hộ độ trì cho cha già con khỏi bệnh hiểm nghèo, bình phục và trường thọ. Chỉ cần có thời gian rảnh rỗi là cô lại đi bộ hành lễ, liên tục hơn nửa tháng, đã đến tháng tư.
Cùng thời điểm đó, thị giả Ngụy Công của hoàng đế sáng sớm đã đến Miếu thờ Nương Nương ở núi Thái Sơn, và ông muốn thắp hương cúng bái Nương Nương Bích Hà Nguyên Quân. Ông đến theo lệnh của Thái hậu. Người ta nói rằng khi gà gáy hàng ngày, việc dâng hương ở Miếu thờ Nương Nương là rất linh nghiệm, đặc biệt là trong lễ hội Miếu tháng Tư. Tin đồn này đã lan rộng khắp Bắc Kinh, cũng như các quận và huyện xung quanh, không chỉ những người dân thường, mà còn cả các hoàng thân, quý phi và phi tần.
Cổng Miếu mở ra một tiếng pháo, trong Cung chào đón Ngụy Công. Khi Ngụy Công vào đến chính điện, thấy trong lư hương trước tượng Phật đã có người thắp hương rồi, ngọn hương bốc cao, hình như có người đến sớm, thắp hương đã lâu. Ngụy Công thấy vậy liền lớn tiếng quở trách Trụ trì miếu rằng: “Tại sao lại cho người khác đến thắp hương ở đây trước cả lễ của Hoàng hậu?
Một nén hương thể hiện lòng thành. (pixabay)
Trụ trì nói với Tiểu sư Miêu Trang người trông nom “Ngụy Công không có ở đây, sao Sư dám mở cổng Miếu?” Miêu Trang hoảng sợ giải thích: Tiểu sư muội thật sự không thể biết được nén hương từ đâu đến!” Lúc Ngụy Công An Kỳ tới, cổng đại điện mới được mở, nhưng cây hương này tro hương dài một tấc, thật là kỳ quái.
Sau đó, Ngụy Công nói với Trụ trì ngôi chùa: “Tôi sẽ không truy xét quá khứ, nhưng nhà chùa phải làm điều đó một cách tôn trọng. Ngày mai, tôi sẽ đến sớm để thắp hương.” Sau đó, ông rời đi.
Sợ phạm tội nặng, mọi người trong Miếu thức trắng đêm, tuần tra canh gác việc thắp hương, vì sợ người khác đốt hương. Ngày hôm sau mới có canh bốn, Ngụy Công đã tới rồi. Nhưng khi đi tới lư hương xem, giống như ngày hôm qua, ông vẫn thấy có hương đã được thắp trước, bên cạnh có một nữ nhân quỳ xuống đất hành lễ. Mọi người đều ngạc nhiên khi nhìn thấy điều đó. Khi người phụ nữ nghe thấy giọng nói, cô ấy vội vàng giật mình, và đột nhiên biến mất. Những người có mặt đều bàng hoàng, cho rằng người phụ nữ này là ma, không phải người thờ Thần.
Ngụy Công vặn lại: “Trước tượng Nữ Thần, làm sao có ma nào dám hiện ra, nhất định phải có nguyên do, ta mới có cách xử lý.” Ngụy Công nói xong liền bước vào dưới cổng Miếu.
Sau đó, ngồi trên một chiếc ghế, ông triệu tập tất cả những người hành hương đã đến ngôi Miếu vào thời điểm này và kể cho họ nghe về người thắp hương đầu tiên họ đã nhìn thấy trong hai ngày qua. Ông cũng kể chi tiết về tuổi tác, ngoại hình và màu quần áo của người phụ nữ. Tôi muốn mọi người giúp tìm ra người này. Những người hành hương khi nghe điều đó hơi sợ hãi, đồng thời họ cảm thấy rất kỳ lạ.
Lúc này, bà lão hàng xóm của cô con gái hiếu thảo tình cờ có mặt trong đám người, sau khi nghe Ngụy Công miêu tả, bà cho rằng cô gái bên cạnh đúng với lời Ngụy Công nói. Bà cụ liền nói với Ngụy Công về cô gái. Ngụy Công hỏi tiếp: “Cô gái hàng xóm của bà là loại người thế nào? Sao lại có thể biến hóa như thế này?” Bà lão trả lời: “Cô ấy sống trên đường phố Hoa Viên và luôn là một người con gái hiếu thảo”. Ngụy Công vừa nghe dứt thì dẫm chân thật mạnh nói: “Đúng, đúng vậy.”
Ngụy Công vội vàng trở về cung rồi sau đó bèn bí mật tìm đến gặp cô gái, chẳng mấy chốc đã tìm được cô con gái hiếu thảo bên cạnh ở phố Hoa Viên. Khi ông nhìn thấy cô gái, thấy giống hệt như người phụ nữ mà ông nhìn thấy trong chính điện của ngôi Miếu.
Khi được hỏi về việc thắp hương của người con gái hiếu thảo, cô liền nói với Ngụy Công về việc thờ cúng, và cũng nói rằng mặc dù cô không thể đích thân đến núi Thái Sơn, tuy vậy cô ấy đã xuất thần như thể cô đã đích thân đi đến đó, và Bệnh tình của cha cô cũng được chữa khỏi, tất cả là do Nương Nương phù hộ.
Khi biết được tường tận của sự việc, Ngụy Công nói: “Ta rất cảm động và trân quý tấm lòng hiếu thảo của cháu!” Sau đó, Ngụy Công nhận người con gái hiếu thảo làm con gái nuôi, coi như con gái ruột của mình.
Người cha của cô con gái hiếu thảo thực sự sống đến trăm tuổi như mong muốn của con gái. Khi cô con gái hiếu thảo lớn lên, được gả cho con trai một gia đình họ Trương ở huyện Đại Hưng, Ngụy Công chuẩn bị của hồi môn trị giá hàng nghìn lượng vàng cho cô. Con rể nhà họ Trương làm ăn phát đạt nhờ của hồi môn này, con cháu trở thành thương gia giàu có.
Câu truyện một lần nữa cho thấy, nếu con người chúng ta có tấm lòng tốt, tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ, có đức tin tuyệt đối ở nơi Thần Phật, khi đó thần tích sẽ xuất hiện. Con người là do Thần Phật tạo ra, được Thần Phật dạy bảo và bảo hộ trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử, do đó, nếu con người biết giữ gìn đạo đức bản thân, có đức tin nơi Thần Phật và làm theo những lời răn dạy, chắc chắn sẽ luôn được Thần Phật bảo hộ.
epochtimes.com
Kiên Tấn