Thần ôn dịch tránh xa người lương thiện, ai tín Thần Phật người ấy ắt bình an
Xã hội ngày nay dẫu có phát triển hoặc thay đổi đến đâu thì tiêu chuẩn đạo đức làm người vẫn mãi trường tồn bất diệt. Người sống nhân đức Trời cao bảo hộ, người làm ác thì họa theo như hình với bóng. Đứng trước thiên tai nhân họa, tin hay không tin, tất cả đều là lựa chọn của mỗi người, và cũng là quyết định vận mệnh tương lai của chính chúng ta.
Trong Hoàng Đế Nội Kinh, Tố Vấn có ghi chép lại một đoạn như sau:
Hoàng Đế: “Dịch bệnh phát tán có tính truyền nhiễm, bất luận người lớn hay trẻ nhỏ, phàm sau khi nhiễm bệnh đều có biểu hiện tương đồng. Phải dùng biện pháp gì mới có thể cứu chữa và tránh bị lây nhiễm?”
Kỳ Bá: “Người không bị truyền nhiễm nhất định là người bên trong cơ thể có nhiều chính khí, như vậy mới có thể tránh được cảm thụ tà khí bên trong”.
Hai từ “chính khí” ở đây có thể hiểu là những người mà tâm địa chính trực, suy nghĩ thiện lương,… thì trong mình sẽ có nhiều chính khí, ắt sẽ tránh được tà khí; còn tà khí ở đây chính là các loại ôn dịch truyền nhiễm.
Sứ giả ôn Thần tránh xa Triệu Quỳ
Vào thời Nam Tống có một vị trạng nguyên rất nổi tiếng, tên gọi Triệu Quỳ. Cũng như Nhạc Phi, ông là người có chủ trương kháng Kim, từ chối sự lôi kéo của Tần Cối, không nhận vàng bạc châu báu nên khiến Tần Cối căm giận muốn bài trừ. Ngược lại, nhờ vào đức hạnh của mình, ông được Tống Cao Tông hết mực sủng ái, phong cho chức Lễ bộ viên Ngoại lang. Triệu Quỳ từng nói:
“Tư Mã Quang không vượt lễ nghĩa mà thu nhận nữ sắc, không nhận tài vật trái với đạo nghĩa. Tuy phẩm hạnh của ta không xứng được gọi là đạo nhưng cũng rất muốn bản thân có thể học theo Tư Mã Quang làm người”.
Trong sách sử cũng có ghi chép lại, năm Triệu Quỳ 8 tuổi cùng cha mẹ đến Tứ Xuyên ở, hồi nhỏ Triệu Quỳ rất thích thổi sáo, hơn nữa lại có thói quen thường xuyên đứng bên đường thổi sáo. Một năm khu vực Tư Châu có ôn dịch bùng phát, Triệu Quỳ lại vẫn như thường lệ thích thổi sáo bên đường. Một hôm ông mang sáo đến quán trà ngồi thổi, có lão phu nhân lại gần nói với ông: “Gần đây có năm người đến đây uống trà, vừa nhìn thấy cậu thổi sáo liền vội vàng đứng dậy đi mất. Điều lạ kỳ hơn là ôn dịch cũng từ đó không còn nữa, mọi người đều cho rằng đó là năm vị sứ giả của ôn Thần”.
Về sau, có một vị dung mạo rất giống Bính Linh Công – đệ tử thứ ba của Đông Nhạc Đại đế – đến quán uống trà nói với lão phu nhân: “Triệu Quỳ có tâm tế bần, ngày sau nhất định có thiện quả”, nói xong cũng liền không thấy bóng dáng đâu cả. Sau đó lão phu nhân gặp Triệu Quỳ kể lại sự việc này.
Triệu Quỳ nghe xong liền đến miếu Thần bái tạ, đang bái tạ đột nhiên có tiếng vọng từ không trung truyền tới: “Năm sau cậu nhất định vang danh thiên hạ”, quả nhiên năm sau Triệu Qùy đỗ đạt trạng nguyên”.
Giàu có cứu người, âm đức vô lượng
Trước đây có một thành trì phát sinh đại ôn dịch, mọi người đang không biết phải làm sao thì có một vị lão nhân tóc trắng xuất hiện, lão nhân đến gặp một nhà đại phú gia trong thành, yêu cầu người này mua thuốc ban phát cho dân chúng. Dân trong thành sau khi có thuốc uống thì rất nhanh chóng khỏi bệnh, ôn dịch cũng nhờ đó mà được khống chế, cả nhà phú giả cũng bình yên vô sự.
Có người từng nhìn thấy có hai sứ giả của ôn thần đi qua cửa nhà đại phú gia nói chuyện với nhau. Một trong hai người nói: “Vị phú gia này âm đức vô lượng, có chư Thần bảo hộ, chúng ta sao dám bước vào?”.
Đối với vấn đề này, Lưu Khuê Bình từng bình luận trong tập Tùng Phong Thuyết: “Âm đức vô lượng, đây thực sự là biện pháp tốt để trừ dịch. Người thế nhân nên nhớ kỹ trong lòng”.
Xưa nay những chuyện thiện nhân gặp thiện quả có rất nhiều, ví như câu chuyện về gia đình Thẩm Văn Bảo sống bên Thái Hồ dưới đây:
Trước đây những người sống bên bờ Thái Hồ thường ngày hay yêu thích bắt cá bẫy chim làm thú vui. Năm này qua năm khác, không biết tiết chế bản thân. Gia đình Thẩm Văn Bảo thì ngược lại, hay bỏ tiền ra mua cá mua chim của những người bắt được thả chúng về tự nhiên, mọi người đều cho rằng gia đình Thẩm Văn Bảo thật ngốc.
Rồi một năm, cả vùng Thái Hồ bị ôn dịch, có người nhìn thấy rất nhiều quỷ ôn dịch tay cầm cờ phướn, trên đó viết: “Ngoài gia đình Thẩm Văn Bảo phóng sinh hành thiện, còn lại tất cả nhà dân đều phải treo cờ trước cửa”.
Sau đó mấy ngày, hơn 300 khẩu ở vùng Thái Hồ đều bị bệnh truyền nhiễm, người dân chết quá nửa, chỉ có gia đình Thẩm Văn Bảo vẫn bình an vô sự.
Tín Thần, kính Phật đắc bình an
Có một thuyền phu sống bằng nghề lái thuyền trên sông Trường Giang, thuyền phu này bình thường kính ngưỡng Thần Phật, tin vào nhân quả báo ứng. Một buổi tối, người thuyền phu mơ gặp Thần Phật nói với mình: “Ngày mai có 5 người muốn qua sông, không được chở. Bây giờ ta sẽ viết lên tay con 3 chữ, nếu như bọn họ cố tình cưỡng chế qua sông, con hãy đợi cho họ xuống thuyền rồi đưa tay cho họ xem”.
Sau khi Thuyền phu tỉnh dậy, nhớ lại giấc mơ rồi mở tay ra xem, quả nhiên trong tay có 3 chữ phù hiệu”.
Qủa nhiên tối hôm sau, có 5 người cưỡng chế thuyền phu, bắt ông phải đưa họ qua sông, thuyền phu liền đưa tay ra cho họ xem, 5 người xem xong đột nhiên biến mất, chỉ để lại một cái hòm trúc. Thuyền phu mở ra xem, hoá ra đó là hòm ôn dịch chuẩn bị mang xuống Giang Nam phát tán.
Thuyền phu đến Giang Tô và kể lại giấc mơ của mình cho mọi người nghe, đồng thời đưa tay ra cho mọi người xem 3 chữ phù hiệu đó. Nhiều người tin rằng đó là phù hiệu hộ mệnh nên chép ra dán lên cửa nhà mình. Tuy nhiên cũng có nhiều người không tin, cho rằng đó là việc mơ hồ. Sau đó ôn dịch xảy ra, những ai tin theo mà dán phù hiệu đó lên trước cửa nhà thì đều bình an vô sự.
Những bài học trong lịch sử là bài học quý giá, cũng là giáo huấn chính diện cho hậu thế, điểm hóa cho con người mỗi khi kiếp nạn đến. Nâng cao chuẩn mực đạo đức, nghe theo lời răn dạy của Thần Phật, thành tâm sám hối những lỗi lầm, đó mới chính là cánh cửa để thoát khỏi đại nạn.
Nguồn: Sound Of Hope
Lan Hòa biên tập