Nguồn: Epochtimes

Cảm Ngộ Nhân Sinh

Vì sao cổ nhân nói: Nghiêm khắc với bản thân, khoan dung với người khác chính là con đường dẫn đến đạo đức cao thượng

By Lan Hòa

June 15, 2021

Đức Khổng Tử có câu: “Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân

Quân tử tự đặt ra yêu cầu cho chính mình, để ước thúc và đề cao đạo đức, phẩm hạnh, còn tiểu nhân luôn đặt ra yêu cầu người khác phải làm theo ý của họ. Khi gặp mâu thuẫn, quân tử sẽ tự tìm nguyên nhân ở bản thân mình, còn tiểu nhân thì luôn tìm nguyên nhân ở người khác, đổ lỗi cho người khác.

Cổ nhân có nói: “Nhân tuy chí ngu, trách nhân tắc minh, thứ kỷ tắc hôn”, có nghĩa là người ta tuy ngu xuẩn đến cực điểm, nhưng đối với thói hư tật xấu của kẻ khác thì lại có thể kể ra rất rõ ràng, rành rẽ. Người ấy nói chuyện thị phi của kẻ khác thì thao thao bất tuyệt, có bài có bản nhưng đối với việc của chính mình thì lại mê muội hồ đồ, tùy tiện cẩu thả, không thể biện biệt rõ ràng, phạm sai sót cũng chẳng quan tâm, thậm chí còn che giấu lỗi lầm nữa. Đây là do bị lòng tư tâm chi phối, xúi giục, khiến người ấy gây ra những điều sai trái, và luôn luôn tự tha thứ cho chính mình.

Còn như người có trí huệ sẽ hành xử như thế nào? Họ chính là lấy tâm trách người để trách mình, lấy tâm tha thứ để tha thứ người. Một người nếu có thể “lấy tâm trách người để trách mình”, tức là biết hướng vào nội tâm mà tìm ra những thiếu sót, sai lầm của bản thân, biết phản tỉnh, dùng lòng khoan dung mà tha thứ cho chính mình cũng như tha thứ cho người khác.

Người xưa chú trọng vào tu thân dưỡng tính, lúc nào cũng chú trọng kiểm tra lại bản thân mình, đồng thời có thể dùng lòng khoan dung mà lượng thứ cho khuyết điểm của người khác. Điều đó không chỉ khiến cho đức hạnh của bản thân mình có thể nâng cao mà còn có thể cảm hóa, thiện hóa người khác.

Học trò của Khổng Tử là Tử Cống từng hỏi ông rằng: “Thưa thầy! Có hay không có một chữ mà có thể làm nguyên tắc khiến con người cả đời làm theo?”. 

Khổng Tử nói: “Chính là chữ “Thứ”. Chữ “Thứ” này chính là mang ý nghĩa khoan dung, độ lượng”. 

Một học trò khác của Khổng Tử là Nhan Hồi cũng từng nói: “Người đối tốt với ta, ta cũng đối tốt với người. Người không đối tốt với ta, ta vẫn đối tốt với người”. 

Trong tâm tôi vẫn còn có chủ nhân

Hứa Hoành là nhà tư tưởng, nhà giáo dục và là nhà thiên văn lịch pháp kiệt xuất cổ đại. Một năm vào mùa hạ, xảy ra loạn lạc, Hứa Hoành cùng rất nhiều người cùng chạy nạn. Khi đi qua Hà Dương, do đường dài xa xôi, lại mùa hè nóng nực, mọi người đều cảm thấy đói khát khó bề chịu nổi.

Lúc này có người đột nhiên phát hiện ra ở ven đường gần đó có một cây lê rất lớn, trên cây đầy những trái lê mát ngọt. Thế là mọi người đều tranh nhau trèo lên cây lê hái quả ăn, duy chỉ có một mình Hứa Hoành vẫn ngồi ngay ngắn dưới gốc cây không hề động tâm.

Mọi người đều cảm thấy kỳ lạ, có người hỏi Hứa Hoành: “Tại sao ông không hái mấy quả lê giải khát?”. Hứa Hoành trả lời: “Không phải lê của mình, sao có thể hái bừa”. Người hỏi không nín được cười phá lên, nói rằng: “Hiện nay thời cuộc loạn như thế này, mọi người ai nấy đều chạy nạn, chủ nhân của cây lê này đã không còn ở đây từ lâu rồi. Không có chủ nhân, việc gì ông phải ý tứ?”.

Hứa Hoành nói: “Cây lê không có chủ nhân, chẳng lẽ cái tâm của tôi cũng không có chủ nhân sao?”. Hứa Hoành vẫn trước sau như một nhất định không hái lê.

Hai bình đậu của đại học sỹ Từ Bạc đời Minh

Đại học sỹ Từ Bạc đời Minh từ nhỏ thiên chất thông minh, khắc khổ học hành. Từ Bạc thuở thiếu thời tính tình trầm tĩnh, cử chỉ già dặn. Khi ông học ở trường tư thục, chưa từng nói cười cẩu thả.

Một hôm thầy giáo phát hiện ra ông thường lấy một quyển sổ nhỏ từ trong túi ra xem, cho rằng đó là đồ chơi của trẻ con, đến khi lại gần mới phát hiện ra, đó là quyển sách nhỏ do chính Từ Bạc chép các ngữ lục kinh điển Nho gia, do đó thầy vô cùng tán thưởng ông.

Từ Bạc còn học theo cổ nhân, không ngừng tự kiểm điểm ngôn hành của mình, trên bàn học có đặt hai cái bình, chứa đậu đen và đậu vàng (đậu tương). Mỗi lần trong tâm nảy sinh một thiện niệm, hoặc nói một câu thiện ngôn, hoặc làm một việc thiện, ông bèn cho một hạt đậu vàng vào bình. Ngược lại, nếu ngôn hành có gì sai trái, ông bèn bỏ một hạt đậu đen vào bình kia.

Ban đầu, đậu đen nhiều, đậu vàng ít, ông không ngừng nỗ lực phản tỉnh kiểm điểm mình, khích lệ mình. Dần dần đậu đen và đậu vàng bằng nhau. Ông lại tiếp tục nghiêm khắc hơn yêu cầu bản thân. Dần dà, bình đậu vàng càng ngày càng nhiều, so sánh ra thì đậu đen quá ít ỏi, không đáng kể. Mãi cho đến sau này ông làm quan, ông vẫn giữ thói quen này.

Nhờ ước thúc và khích lệ lâu dài như thế này, ông đã không ngừng tu luyện bản thân, hoàn thiện phẩm đức của mình, sau này cuối cùng cũng đã trở thành một danh thần đức cao vọng trọng của một thời.

Những ước thúc tiêu chuẩn cao của Từ Bạc đối với hành vi của mình đã biểu thị ra ý thức tự luật rất mãnh liệt của ông. Mặc dù khi ở một mình, ông cũng tự giác nghiêm khắc giữ kỷ luật, cẩn thận đối đãi với mỗi lời nói mỗi việc làm của mình.

Cẩn thận khi ở một mình là cảnh giới tối cao của tự giác chấp hành kỷ luật (tự luật). Nó khiến cho một người làm việc độc lập, không có ai giám sát vẫn có thể giữ mình không bị vật chất khống chế, mà lại không hề lơi lỏng mức độ tự giám sát bản thân, cẩn thận tự giác chiểu theo chuẩn mực đạo đức để quy phạm hành vi lời nói của mình, vẫn luôn luôn giữ tự giác đạo đức như xưa.

 

Nguồn: Đức Hạnh

Chân Nhiên biên tập