Nguồn gốc phong tục: “Con trai đội vành rơm, con gái che mặt” trong đám tang người Việt?
Đám tang hay đám ma, lễ tang, tang lễ, tang ma là một trong những phong tục của Việt Nam. Bao gồm nhiều quy trình của những người đang sống thực hiện đối với người vừa chết.
Tang lễ được tổ chức khác nhau ở các dân tộc trên Việt Nam, mỗi một dân tộc có những nghi lễ tổ chức khác nhau mặc dù không nhiều nhưng đều có những bước cơ bản tương đối giống nhau ở trong cộng đồng người Kinh cũng như các dân tộc thiểu số khác. Trong tang lễ thường là con trai quấn đầu bằng vành rơm, con gái thì dùng khăn xô che mặt.
Sự tích cổ xưa dưới đây sẽ cho chúng ta biết nguồn gốc của phong tục: “Con trai phải đội vành rơm, con gái phải che mặt trong đám tang”.
Ngày xưa, có vợ chồng nhà phú hộ nọ sinh được năm người con gái. Nhà giàu nhưng lại không có con trai, nên bao nhiêu tình thương và hy vọng họ đều dồn hết vào những cô con gái. Lần lượt năm cô lớn lên, ai nấy đều lập gia đình và đi ở riêng…
Vì các cô đều lấy chồng xa, nên hai ông bà phú hộ cảm thấy nhớ con quá. Một hôm bà bảo chồng:
– Sắp tới, ông chịu khó trông nhà cửa cho tôi đi thăm chúng một lượt, sau đó tôi lại về trông nhà để ông đi…
– Phải đó – ông đáp – nhưng bà phải đi nhanh nhanh lên mới được, đừng bắt tôi phải đợi lâu!
– Không được đâu, tôi tính ở lại với các con đứa nào ít nhất cũng một tháng, năm đứa vị chi là năm tháng, còn đi đường tổng cộng độ vài ba chục ngày, như vậy cũng mất ngót nửa năm rồi ông ạ! – Bà nói.
Ông phú hộ trầm tư chốc lát rồi bảo vợ:
– Thôi được, thế thì bà nó đi đi, bà nhớ đừng để cho đứa nào quấn quýt quá rồi ăn dầm nằm dề ở đó làm cho tôi mòn mỏi trông chờ.
Rồi người vợ cùng con hầu ra đi. Nhưng chỉ được chưa đầy hai tháng đã thấy bà trở về, vẻ mặt buồn xo. Thấy thế, ông liền hỏi dồn:
– Hà cớ làm sao mà bà về nhanh như vậy? Có gặp điều gì khó khăn dọc đường hay không mà vẻ mặt bà không được vui?
Bà phú hộ đáp:
– Chẳng có gì hết, tôi vẫn bình yên, chúng nó đều mạnh khỏe cả. Tôi về sớm là vì tôi muốn ông khỏi lo lắng ngóng trông. Nếu nhớ các con, ông cứ đi một lần cho biết.
Thấy vợ nói úp úp mở mở, ông phú hộ chẳng hiểu gì nên cuối cùng cũng sắm sửa hành lý ra đi. Ông ghé nhà người con gái thứ nhất. Chàng rể tiếp đón khá niềm nở làm ông hài lòng, nhưng con gái ông lại không được như thế, cô cả chỉ chuyện trò giả lả được đôi câu với cha rồi quay vào mải mê với công việc của mình.
Đến khi chồng cô ra đồng trông coi thợ cày cấy, thì con gái ông lúi húi lo việc bếp núc, cha con chẳng có dịp chuyện trò.
Mãi đến gần trưa, ông cảm thấy bụng đói cồn cào, định bảo nó dọn cho mình ăn trước như hồi còn ở nhà, nhưng rồi lại nghĩ thầm: “Để xem nó đối đãi với cha nó ra sao cho biết!”. Ông thấy con gái chờ chồng về mới dọn cơm ra. Chàng rể của ông lúc ấy tuy đã về rồi mà vẫn còn bận một số công việc nên ông phải đợi tiếp. Đến khi thấy quá trưa, con gái ông mới gọi chồng:
– Mình ơi, hãy để đó vào ăn cơm đi, cho ông già ăn với!
Nghe con gái nói thế, ông cảm thấy không được vui. Chiều hôm ấy và liên tiếp những ngày sau cũng vậy. Ông nghiệm ra rằng con gái ông chỉ lo chăm sóc cho chồng con nó chứ không phải cho ông: “Thì ra bây giờ nó coi cha nó chẳng ra cái quái gì. Nếu chồng nó không ăn thì có lẽ mình cũng phải ngồi nhịn đói”. Ở chơi được ít ngày, thấy con gái cả không được vồn vã đằm thắm như xưa, ông liền từ giã vợ chồng nó mà đi đến nhà đứa khác xem sao.
Lần này vừa đi ông vừa lẩm bẩm: “Chắc thế nào những đứa sau cũng phải khác chứ, chẳng lẽ đứa nào cũng như vậy cả sao? Vợ chồng ta vốn vẫn trông cậy chúng nó rồi đây sẽ chia nhau về phụng dưỡng một khi bố mẹ tuổi già kia mà!”
Nhưng khi đến nơi, ông thấy đứa thứ hai cũng chẳng khác gì đứa đầu. Nghe bố đến thăm cũng tiếp đãi gọi là cho tròn bổn phận rồi lại loay hoay vào công việc nhà chồng, bỏ mặc ông chẳng chút quan tâm.
Lần lượt ông đi thăm đủ cả năm cô con gái yêu quý nhưng chẳng đứa nào là không say mê với công việc và chỉ chú tâm vào gia đình riêng của mình. Chẳng đứa nào quan tâm chăm sóc đến ông như lúc còn ở nhà. Sau cùng, ông chép miệng:
– Vậy là con gái một khi bước về nhà chồng thì chẳng còn là con mình nữa. Nó xem chồng con trọng hơn bố mẹ nó nhiều. Nghĩ vậy nên ông quả quyết trở về. Ông tính lại thời gian thăm con cả đi lẫn về còn ngắn hơn cả chuyến đi chơi lần trước của bà nhà nữa.
Khi về tới nhà, ông gọi vợ lại bàn rằng:
– Thế là mấy đứa con gái có cũng như không, chẳng hy vọng gì vào chúng nó đỡ đần mình lúc tuổi già nữa rồi. Bây giờ bà để tôi đi kiếm một đứa con nuôi đặng mai sau nó săn sóc chúng mình lúc mắt lòa chân chậm. Bà nó nghĩ sao?
Bà vợ phú hộ trả lời:
– Thôi ông ạ! Đừng có đi mà mất công nhọc xác. Con mình rứt ruột đẻ ra mà chúng nó còn không đoái không hoài thì con nuôi có làm được gì?
Phú ông liền bảo:
– Trên đời này có kẻ tốt người xấu, đâu phải ai cũng như ai, bà đừng sinh lòng nghi ngại.
Nghe ông nói vậy bà cũng xuôi lòng, bảo:
– Được rồi, vậy ông cứ đi thử một chuyến xem sao, cầu mong cho ông cố tìm một đứa con ngoan về phụng dưỡng hai thân già này, mọi việc ở nhà cứ để mặc tôi lo liệu.
Thế là ông Phú hộ bèn đóng vai một lão già nghèo khó rồi ra đi từ làng này đến làng khác, đến đâu ông cũng rao:
– Ai mua cha không? Có ai mua cha thì ra mà mua! Mua ta về làm cha chỉ mất năm quan tiền thôi…
Mọi người nghe ông già rao như vậy thì tưởng ông điên. Có người còn vui miệng nói:
– Mua lão ấy để về nhà mà hầu ư? Để rồi đây lão ta trăm tuổi qua đời có được đồng nào còn phải lo tống táng nữa sao? Đúng là “ôm rơm rặm bụng”, thà là nuôi một người đầy tớ còn hơn. Tuy có phải nghe rất nhiều lời mỉa mai cười cợt, phú ông vẫn không nản chí, vẫn đi hết xóm này đến ấp kia, miệng rao không ngớt:
– Có ai mua cha không! Có ai mua cha không này?
Bấy giờ ở làng nọ có hai vợ chồng một nông phu nghèo, nghe thấy có người đi bán mình làm cha, chồng bảo vợ :
– Hai vợ chồng mình mồ côi từ thuở bé, chưa bao giờ được hưởng tình cha con, lại chưa có mụn con nào, thật là buồn. Thôi thì ta mua ông già này về thủ thỉ, chăm sóc nhau khuya sớm cho vui cửa vui nhà. Thấy vợ bằng lòng, anh chồng chạy ra đón ông già vào và nói:
– Xin hỏi ông định bán mình bao nhiêu tiền ạ?
– Năm quan không bớt, ông phú hộ đáp.
Anh chồng liền thưa:
– Thú thật với ông, nhà tôi nghèo quá, muốn mua ông nhưng không sẵn tiền. Vậy ông ngồi chơi để tôi bảo nhà tôi đi vay xem sao. Phú hộ ngồi chờ hồi lâu, thấy chị vợ tất tưởi chạy đi rồi lại quay về, nhưng số tiền vay được cùng với tiền nhà gom lại cũng chỉ có hơn hai quan. Anh chồng liền nói:
– Thôi thì ông thông cảm cho, hai ngày nữa mời ông trở lại, chúng tôi sẽ có đủ tiền.
Hai ngày sau, vợ chồng anh nông phu trao tiền cho ông, mời ông vào nhà, lại xưng hô “cha cha, con con” rất thân tình. Phú hộ thấy mái tóc dài của cô con gái nuôi bấy giờ biến đi đâu mất, liền hỏi chồng cô ta:
– Này con ơi, tại sao mái tóc của vợ con lại cắt cụt đi như vậy?
Anh chồng tần ngần đáp:
– Chẳng giấu gì cha, nhà con quá nghèo không có đủ nổi năm tiền mua cha, mà nếu không mua thì biết có dịp nào tốt hơn. Vì vậy, vợ con phải cắt tóc đi bán mới có đủ số tiền năm quan đó.
Từ ngày có người cha nuôi, hai vợ chồng nông phu tỏ ra rất niềm nở đối đãi, chăm sóc ông hết mực chu toàn và hiếu kính. Phú ông thì vẫn không cho hai vợ chồng đứa con nuôi biết gốc tích quê quán thật của mình, hằng ngày vẫn cứ ăn no ngủ kỹ, đôi lúc lại kêu váng đầu mỏi lưng, bắt họ phải chăm nom hoặc tìm thầy chạy thuốc. Mặc dầu vậy, hai vợ chồng vẫn sớm tối săn sóc, lo lắng, cơm nước cho cha nuôi không hề bê trễ, cũng không hề có nửa lời than vãn. Cứ như vậy được vài tháng sau, nhà họ đã nghèo lại càng nghèo thêm.
Hai vợ chồng phải cố gắng làm thêm mọi việc để nuôi cha, có bữa họ còn phải nhịn đói để nhường cơm cho ông già. Tình cảnh như vậy lại kéo dài tiếp chừng nửa năm, nợ nần của họ chồng chất quá nhiều mà trong nhà gạo tiền đã kiệt. Tuy vậy, họ vẫn không hề lộ vẻ mỏi mệt, cả hai đều cố làm vui lòng cha già.
Một hôm, hai vợ chồng ngủ dậy đã thấy người cha nuôi khăn gói chỉnh tề, ông bảo họ:
– Các con hãy đốt cái nhà này rồi đi theo ta!
Vợ chồng anh nông phu trố mắt nhìn nhau, tưởng ông phát điên, nhưng sau đó lại thấy ông phú hộ giục bảo:
– Làm con thì phải vâng theo cha mẹ, chớ có sai lời. Cha đã bảo các con đi theo cha kiếm ăn thì cứ việc đi, còn cái nhà này ọp ẹp chẳng đáng bao nhiêu đồng, đừng tiếc nữa.
Hai vợ chồng nghe cha nuôi nói thế thì biết là ông nói thật, không dám cãi, đành nhặt nhạnh một vài món đồ thiết thân buộc thành một gói, rồi châm lửa đốt nhà. Đi theo ông già, họ thấy ông ban ngày lần hồi xin ăn, tối tối lại vào nhà người ta mà xin ngủ nhờ, họ vẫn vâng lời, không chút phân vân.
Ba người cứ đi xin ăn như thế được năm ngày, cuối cùng thì họ đến trước một ngôi nhà lớn năm gian hết sức khang trang to đẹp, cảnh trí cũng thật đề huề: phía trước trồng cau, phía sau trồng chuối, mái ngói hiên tây, vườn cây gốc mít, sập gụ tủ chè… thôi thì đủ cả. Khi này ông mới vui vẻ bảo họ:
– Các con ơi, đã đến nhà ta rồi!
Bà phú hộ bước ra cổng đón cả ba người vào, còn ông thì tươi cười bảo vợ:
– Bà nó này, đây mới thật là con của chúng ta đấy!
Bấy giờ vợ chồng anh nông phu mới ngớ người ra, biết được cha mẹ nuôi của mình vốn thuộc hàng cự phú. Phú hộ bảo vợ chồng anh nông phu lấy theo họ của mình, kể từ đó cả gia đình chung sống bên nhau vô cùng sung sướng và hạnh phúc.
Ít lâu sau, phú hộ lâm bệnh nặng. Biết mình sắp gần đất xa trời, ông bèn làm tờ di chúc để lại hết gia tài cho vợ chồng người con nuôi, đoạn ông gọi vợ đến trăn trối rằng:
– Sau khi tôi chết, bà nhớ đừng cho năm đứa con gái biết tin đấy! Ông nói trong tiếng nấc, đoạn bảo tiếp:
– Nếu chúng nó có nghe ai mách mà về đây, chưa biết chừng tôi sẽ “bứt néo” trỗi dậy cho mà coi… dừng lại vài phút như để lấy hơi, ông lại thều thào căn dặn:
– Về việc để tang thì đối với đứa con trai nuôi hãy coi nó cũng như con ruột, vậy nên cứ theo cổ tục: cắt tóc, đội mũ mấn, quấn vành rơm trên đầu và đứng chống gậy bên linh cữu để chứng tỏ mình chịu cực chịu khổ trả hiếu với cha là được. Nhưng đối với đứa con dâu thì bà bảo nó khỏi phải cắt tóc, vì tôi chưa bao giờ quên được cái việc nó đã bán đi mái tóc dài của nó để mua cha, vậy thì nó chỉ cần đội khăn tang là đủ…
Mặc dù tỏ vẻ chiều theo ý chồng, nhưng khi khâm liệm cho ông phú hộ xong, bà phú hộ vì nặng lòng nên cũng sai người lén báo tin cho năm đứa con gái biết. Khi chúng về, bà đón ở cổng, thuật lại lời trăng trối của người cha cho chúng nghe và bảo chúng đừng có vào nhà, kẻo có sự chẳng lành.
Năm đứa con gái hối hận lắm, nhưng việc đã rồi, giờ biết làm sao? Khi đưa linh cữu cha ra đồng, chúng đòi đi đưa cho bằng được. Khuyên can con mãi không xong, cuối cùng bà Phú hộ buộc lòng phải phát khăn tang cho chúng, ngoài ra còn đưa thêm cho mỗi đứa một vuông vải xô che mặt để mong linh hồn cha chúng khỏi nhận biết được.
Cũng kể từ khi đó, trong dân gian người ta bắt chước để tang theo nghi thức của gia đình Phú hộ này, tức là: “Con trai cắt tóc, đội vành rơm, mũ mấn, áo vải xô có cuốn dây lưng bện từ cọng của tàu chuối khô và đứng chống gậy như cổ tục; con dâu được miễn cắt tóc và che mặt, chỉ phải đội khăn tang. Còn con gái ngoài việc đội khăn tang còn cần phải có thêm một mảnh vải xô che mặt”.
Đăng Dũng biên tập
Nguồn: ntdvn