Biến đổi khí hậu dẫn đến sự hủy diệt của nền văn minh cổ đại – cảnh báo thảm họa cho loài người hôm nay
Theo một nghiên cứu mới, sự thay đổi khí hậu đã dẫn đến sự sụp đổ của một nền văn minh cổ đại, theo một nghiên cứu mới đây sẽ là một lời cảnh báo rõ ràng cho thế giới hiện đại.
Nền văn minh thung lũng Indus là một nền văn minh thời đại đồ đồng tồn tại từ năm 33000 trước Công nguyên đến năm 1300 trước Công nguyên ở Nam Á. Đã có một số bí ẩn về lý do tại sao nền văn minh này nhanh chóng biến mất, với một giả thuyết cho rằng đó là do cuộc xâm lược của những người Indo-Aryan du mục. Một giả thuyết khác cho rằng động đất đã dẫn đến sự hủy diệt của nền văn minh.
Nhưng những nghiên cứu mới đây đã hoàn toàn lật ngược những giả thuyết trên, với bằng chứng toán học chỉ ra sự thay đổi khí hậu nhanh chóng là nguyên nhân dẫn đến nền văn minh này bị hủy diệt.
Một nhà khoa học từ Viện Công nghệ Rochester (RIT) đã phát triển một phương pháp nghiên cứu chuỗi thời gian cổ sinh khí hậu, chẳng hạn như phân tích một đồng vị nhất định được tìm thấy trong măng đá từ một hang động ở Nam Á, để phân tích mức kỷ lục gió mùa từ 5.700 năm trước.
Nishant Malik, trợ lý giáo sư tại Trường Khoa học Toán học RIT, nhận thấy rằng vào thời kỳ đầu của nền văn minh, có sự sụt giảm đột ngột trong hoạt động của gió mùa, nhưng cuối cùng nó đã tăng nhanh trở lại.
Giáo sư Malik cho biết: “Thông thường dữ liệu chúng tôi nhận được khi phân tích cổ sinh là một chuỗi thời gian ngắn, bị nhiễu.
“Liên quan đến toán học và khí hậu, công cụ chúng tôi sử dụng thường xuyên để hiểu khí hậu và thời tiết là các hệ thống động lực học.
“Nhưng lý thuyết hệ thống động lực học khó áp dụng hơn cho dữ liệu cổ sinh khí hậu.
“Phương pháp mới này có thể tìm thấy các chuyển đổi trong chuỗi thời gian thách thức nhất, bao gồm cả thời kỳ cổ sinh, ngắn, có một số độ không chắc chắn và có tiếng ồn trong chúng.”
Đây không phải là lần đầu tiên các nhà khoa học phát hiện biến đổi khí hậu dẫn đến sự sụp đổ của một đế chế.
Đế chế Neo-Assyrian là một đế chế từ thời kỳ đồ sắt đã cai trị phần lớn Trung Đông từ năm 911 trước Công nguyên đến năm 609 trước Công nguyên.
Các nhà khoa học đã vô cùng sửng sốt khi đế chế Neo gặp nhiều những vụ đụng độ thiên thạch, chỉ trong vài thập kỷ đế chế này đã hoàn toàn biến mất.
Bằng cách phân tích măng đá từ hang Kuna Ba, nằm gần Nineveh, miền bắc Iraq, các nhà nghiên cứu đã có thể kiểm tra các đồng vị nặng và nhẹ của oxy.
Những chất đồng vị này mang lại một cái nhìn thoáng qua về quá khứ khí hậu và các nhà nghiên cứu có thể biết được trong thời kỳ đầu của Đế chế Tân Assyria, Trung Đông đã trải qua một vùng ẩm ướt bất thường như thế nào.
Các nhà lãnh đạo nghiên cứu Ashish Sinha, khoa học khí hậu tại Đại học Bang California, và Gayatri Kathayat, phó giáo sư về thay đổi môi trường toàn cầu tại Đại học Giao thông Tây An, đã trình bày chi tiết khám phá của họ trong một cuộc trò chuyện.
Họ viết: “Chúng tôi lập luận rằng gần hai thế kỷ điều kiện ẩm ướt bất thường ở vùng bán khô hạn này đã cho phép nông nghiệp phát triển và tạo ra năng lượng cho nền kinh tế Assyria.
“Khí hậu đóng vai trò như một chất xúc tác cho việc hình thành một mạng lưới dày đặc các khu định cư ở thành thị và nông thôn trong các khu vực bất ổn mà trước đây không thể hỗ trợ nông nghiệp”.
Tuy nhiên, về cuối thời kỳ đế chế, khí hậu ở Trung Đông trở lại như cũ và trở nên khô hạn với tình trạng khô hạn kéo dài hàng thập kỷ.
Thế kỷ hiện tại của chúng ta Trái Đất đang ngày càng nóng lên
Cuối cùng, mùa màng bắt đầu chết và mọi người bắt đầu chết đói dẫn đến đế chế trở nên suy vong, đứng trước nguy cơ bị xóa sổ.
Và nhóm nghiên cứu cho rằng khám phá này nên là một lời cảnh báo rõ ràng cho tương lai của xã hội khi biến đổi khí hậu ngày càng rõ ràng trong thế giới hiện đại của chúng ta.
Cặp đôi nói thêm: “Những đợt hạn hán như thế này cho ta một cái nhìn thoáng qua về những gì người Assyria phải chịu đựng vào giữa thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên. Và sự sụp đổ của Đế chế Neo-Assyrian đưa ra một lời cảnh báo cho xã hội ngày nay.
Một báo cáo thay đổi khí hậu được công bố trên một tạp chí khoa học hàng đầu đã xác nhận Greenland và Nam Cực đang tan chảy với tốc độ phù hợp với các dự đoán “trường hợp xấu nhất”.
Các nghiên cứu , được công bố trên tạp chí Nature Climate Change , đã khẳng định chỏm băng vùng cực đang mất đi khối lượng ở mức đe dọa thảm khốc mực nước biển dâng. Tốc độ băng tan đang diễn ra phù hợp với dự báo về trường hợp xấu nhất của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC). Các phát hiện được trình bày bởi một nhóm các nhà khoa học quốc tế từ Đại học Leeds và Đại học Leeds (DMI).
Kể từ những năm 1990, các nhà khoa học luôn theo dõi lượng băng bị mất đi do sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu.
Từ năm 192 đến năm 2017, Greenland và Nam Cực đã mất tổng cộng 6,4 nghìn tỷ tấn băng.
Lượng băng bị mất được ước tính đã đẩy mực nước biển trên toàn cầu thêm 17,8mm.
Các nhà khoa học lo ngại mực nước biển sẽ tăng thêm 6,7 inch (17cm) nếu tốc độ mất băng hiện tại vẫn tiếp tục.
Với sự gia tăng mực nước biển như vậy dự kiến cuối thế kỷ này sẽ có 16 triệu dân trên toàn cầu bị ảnh hưởng.
Sự tan chảy của các chỏm băng trên Trái đất sẽ góp phần làm gia tăng lũ lụt ven biển, dịch chuyển các dòng hải lưu và các hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra thường xuyên hơn. Các quốc gia vùng ven biển sẽ gặp nhiều thiên tai, bão lũ và sóng thần hơn.
Theo Tom Slater, tác giả chính của nhà nghiên cứu tại Trung tâm Quan sát và Mô hình Địa cực thuộc Đại học Leeds, các vệ tinh quan trọng có thể thực hiện các phép đo chính xác của mũ cực.
Ông nói: “Vệ tinh là phương tiện duy nhất của chúng tôi để giám sát thường xuyên những khu vực rộng lớn và xa xôi này, vì vậy chúng hoàn toàn quan trọng trong việc cung cấp các phép đo mà chúng tôi có thể sử dụng để xác nhận các mô hình tảng băng.
“Các quan sát vệ tinh không chỉ cho chúng tôi biết lượng băng đang bị mất đi, chúng còn giúp chúng tôi xác định và hiểu phần nào về tình hình Nam Cực và Greenland.
Các nỗ lực của IMBIE được hỗ trợ bởi NASA và Cơ quan Vũ trụ Châu Âu (ESA).
Biên tập: Thiên Hà