Ở Lĩnh Nam, Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc có một gia đình Lưu Dao. Một ngày nọ vào năm Trinh Nguyên 632 vợ ông là Lưu mơ thấy hoa sen nở trong sân, chim bay khắp trời, những đám mây xanh lần lượt xếp xen kẽ nhau ở trên trời trông như những bông hoa sen, và thấy khắp phòng có mùi thơm lạ lùng.
Sau khi tỉnh dậy, bà Lưu cảm thấy có thai, liền tắm rửa sạch sẽ và giữ gìn thân thể, lần mang thai này kéo dài đến sáu năm, mãi đến năm Trịnh Nguyên thứ mười hai (năm 638), tức nửa đêm ngày mồng tám tháng hai, một bé trai đã chào đời.
Vào lúc này, ánh sáng đỏ bao phủ khắp gian phòng, trong phòng tràn ngập hương thơm. Khi mặt trời lên, bỗng có một nhà sư đến thăm gia đình họ Lưu, vừa bước vào nhà thì ông đã nói với gia đình họ Lưu rằng: “Chúc mừng gia đình đã hạ sinh một quý tử, tôi đến để gửi chúc mừng đến gia đình và cũng muốn đặt cho đứa bé này một cái tên hay.
Ông Lục nghe đến đây thì cũng nghĩ thầm trong bụng, chắc đây là một tăng nhân liền vội vàng hỏi: “Không biết sư phụ ban cho đứa nhỏ này cái tên gì?” Vị cao nhân nói: “tên là Huệ Năng”. Trước sự khó hiểu của gia đình ông Lưu vị cao tăng nói: “Huệ chính là trí huệ sáng suốt, đứa bé này sau này sẽ đem giáo lý của Phật Giáo để truyền cho chúng sinh; Năng đó là chính là khả năng hoằng dương Phật pháp”.
Vị cao tăng nói xong liền biến mất trong nháy mắt. Vợ chồng nhà ông Lưu đều cảm thấy rất kỳ lạ, họ ngẩn ngơ nhìn lên không trung một lúc.
Nhưng có một điều kỳ lạ đã xảy ra, khi Huệ Năng được sinh ra lại không chịu bú sữa mẹ, sau đó chỉ ngày, Huệ Năng đã bất tỉnh vì đói, vợ chồng ông Lưu vô cùng lo lắng, và lo sợ.
Đêm hôm đó, khi vợ chồng họ Lưu vẫn còn đang buồn bã thì đột nhiên một ánh sáng vàng lóe lên, một người nữ Tiên nhân hiện lên với nét mắt hiền hòa, trên tay cầm chiếc lọ bằng ngọc, trong cái lọ có chứa nước, khi người phụ nữ cho cậu bé uống ít nước thì đột nhiên cậu tỉnh lại tràn đầy sức sống. Vợ chồng họ Lưu nhìn con thì vô cùng mừng rỡ, khi ngước mặt lên cảm ơn Tiên nhân thì đã không thấy Tiên nhân đâu rồi.
Như câu nói: “Người có phúc, thì có gặp chuyện dữ thì cũng hóa lành”. Khi Huệ Năng được ba tuổi, thì cha qua đời, Huệ Năng cùng mẹ sống nương tựa vào nhau. Khi Huệ Năng lớn lên, hàng ngày lên núi kiếm củi mang ra chợ bán để trang trải cuộc sống của hai mẹ con.
Một ngày nọ, khi Huệ Năng vào thành phố bán củi, khi chuẩn bị xoay người rời đi, bỗng nghe thấy một vị khách đang tụng kinh “Kim Cương” thật to, Huệ Năng thấy ông đọc: “Tất cả mọi thứ đều là hư không”.
Huệ Năng đột nhiên cảm thấy một niềm khao khát, một niềm khao khát sâu thẳm từ trong trái tim. Huệ Năng kính cẩn hỏi người khách: “Thưa ngài! Vừa rồi ngài đọc quyển sách gì vậy?”.
Người khách nói với Huệ Năng rằng đó là “Kinh Kim Cương Bát Nhã” Ông đến từ chùa Đông Chấn ở quận Hoàng Mai, tỉnh Hồ Bắc nơi có Sư phụ Hoằng Nhẫn, vị tổ thứ năm của Thiền tông, trụ trì và hoằng dương Phật pháp.
Huệ Năng nghe vậy rất vui mừng và ngay lập tức trong tâm có một nguyện vọng đến chùa Đông Chấn xuất gia tu hành. Nhưng khi nghĩ đến mẹ già, không biết khi Huệ Năng đi thì ai chăm sóc, nên khuôn mặt của Huệ Năng tỏ vẻ lo lắng.
Khi Huệ Năng trở về nhà, đã nói với mẹ rằng anh định đến chùa Đông Chấn để tu hành. Bà Lưu lúc đó vui buồn lẫn lộn, bà cười xong khuôn mặt lại buồn lại ngay, bà vui là vì con bà đã tìm được một hoài bão chân chính là có tâm tu luyện trong Phật Pháp; điều bà buồn nhất là bà phải xa người con duy nhất của bà, người đã gắn bó với bà hơn 20 năm qua.
Từ những chuyện kỳ lạ bà đã chứng kiến kể từ khi con trai bà sinh ra, trong lòng bà đã dự đoán chắc rằng một ngày nào đó con cũng sẽ trở thành một người tu Phật Pháp, nhưng dù đã chuẩn bị từ trước, thì khi ngày đó đến, tình yêu của người mẹ dành cho con sắp phải đi xa thì không thể nào diễn tả được nỗi buồn này, nước mắt của bà không ngừng chảy dài trên khuôn mặt.
Vì để mẹ có một thời gian để chấp nhận sự thật này thì Huệ Năng cũng ở nhà thêm một thời gian, và để mẹ khỏi băn khoăn trong lòng thì Huệ Năng cũng đem chuyện này để xin ý kiến người chú ruột của mình.
Nhưng khi chú của Huệ Năng biết điều này thì vô cùng tức giận mà nói: “Cha anh mất sớm, mẹ già của anh vẫn còn sống ở đó. Làm sao anh có thể bỏ mẹ già mà đi tu được? Nếu anh muốn tôi cho phép anh đi tu, trừ khi anh làm tảng đá kia nứt đôi ra”.
Lời nói của người chú thốt ra một cách tình cờ, để khẳng định rằng việc chấp thuận cho cậu đi là một điều không thể, để người cháu từ bỏ ý tu hành.
Nhưng người chú đâu biết rằng, từ khi còn nhỏ Huệ Năng đã có tâm tu luyện, trong mọi hành động và suy nghĩ cậu luôn ước thúc bản thân, anh luôn tin rằng có Thần Phật tồn tại và luôn dõi theo, bảo hộ anh và sẽ soi sáng con đường hướng về Phật Pháp của anh.
Huệ Năng từ từ bước đến tảng đá và cúi đầu. Vừa lúc đó thì có một âm thanh lớn trên bầu trời, và một tia chớp đã cắt đôi tảng đá. Mẹ và chú nhìn thấy thì rất ngạc nhiên, họ đều cảm thấy rằng việc Huệ Năng đi tu là ý trời, vì vậy họ đã đồng ý cho Huệ Năng đi tu, và người chú hứa rằng sẽ chăm sóc người mẹ già của cậu chu đáo để cậu có thể yên tâm tu luyện.
Về sau, người ta gọi tảng đá vỡ này là “Biệt mẫu thạch”. Sau hơn một nghìn năm mưa, gió, sương, tuyết, tảng đá vỡ này đã được bảo tồn như một di tích văn hóa ở Quảng Đông.
Tảng đá vỡ đôi, như một điểm hóa và phá mê cho Huệ Năng, từ tấm lòng hiếu thảo, thương yêu mẹ, đã thăng hoa thành tấm lòng nhân ái đối với tất cả chúng sinh trên thế gian.
Huệ Năng từ biệt mẹ già, đi bộ lên đường, chăm chỉ không ngừng, vượt qua bao con đường, dãy núi, con kênh, thì sau 30 ngày cuối cùng cũng đến được Hoàng Mai, Huệ Năng đã tìm thấy chùa Đông Chấn, vừa đến nơi anh liền tới bái kiến và bày tỏ lòng tôn kính với Ngũ tổ đại sư Hoằng Nhẫn. Đại sư hỏi Huệ Năng: “Cậu là người nơi nào, đến đây làm gì?”.
Huệ Năng trả lời: “Con là người ở Quảng Châu đến. Từ xa lặn lội đến đây mong được tu hành trong Phật Pháp”.
Ngũ tổ nghe vậy mỉm cười cho rằng Huệ Năng có ngộ tính tốt, có tín tâm tu luyện. Và dặn Huệ Năng trước hết ở lại trong chùa, sau này cùng với các sư làm việc.
Hàng ngày công việc của Huệ Năng là chẻ củi, giã gạo, ghánh nước, nấu cơm, và làm những việc tay chân nặng nhọc khác. Huệ Năng cứ như thế làm trong 8 tháng, mặc dù mỗi ngày đều gặp đại sư Hoằng Nhẫn, sư phụ ngoài việc hỏi Huệ Năng việc giã gạo thế nào, còn lại đều không dạy cậu bất kể điều gì về Kinh Phật.
Trong lòng Huệ Năng không tránh khỏi cảm giác thất vọng. Tuy nhiên hằng ngày cậu vẫn chăm chỉ làm không một chút lười biếng. Cối gạo to, chày đạp lớn; người lại gầy ốm, không đủ sức nặng cất được chày đạp, Ngài phải cột thêm đá vào lưng để đủ sức giã gạo.
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn biết thời cơ truyền Pháp đã đến, liền ra lệnh cho toàn chúng đệ tử trình bài kệ kinh nghiệm tu tập. Trong số chúng bảy trăm người chỉ có Thượng tọa Thần Tú viết kệ:
“Thân là cây Bồ Đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để bụi trần bám”.
Ngài Thần Tú viết xong bài kệ, ai cũng tấm tắc khen hay, cho rằng Ngài xứng đáng được truyền y bát. Ngài Huệ Năng nghe bài kệ của Ngài Thần Tú cũng nhờ người viết giúp một bài kệ:
“Bồ Đề vốn không cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Nào chỗ bám trần ai?”
Khi ấy, Tổ Hoằng Nhẫn đi qua, đọc được bài kệ của Huệ Năng, nhưng đã lấy dép của mình xóa đi.
Có một ngày Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ra phía sau chùa, thấy Huệ Năng vẫn như mọi khi đang chuyên tâm giã gạo. Ngũ tổ đã hỏi Huệ Năng giã gạo xong chưa. Huệ Năng thấy sư phụ đích thân tới, vội vàng song thủ hợp thập và đáp lời sư phụ: “Gạo đã giã xong từ lâu rồi, chỉ cần sàng một lượt là được rồi”.
Huệ Năng không ngờ lần này Ngũ tổ lại nhàn rỗi trò chuyện với mình. Hai người cứ một người hỏi một người trả lời một lúc lâu. Trước khi rời đi, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn dùng cây tích trượng gõ vào cối giã gạo của Huệ Năng 3 tiếng. Huệ Năng lập tức hiểu ra ý của sư phụ, đợi tới canh ba lặng lẽ tới bái kiến Ngũ tổ. Ngũ tổ lập tức dùng áo ca sa che chỗ hở trên cửa sổ rồi mới bắt đầu giảng giải cho Huệ Năng về chứng ngộ của mình đối với “Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật”.
Ngũ tổ đem tất cả Pháp đốn ngộ Thiền Tông đã chứng ngộ được dốc lòng truyền thụ lại cho Huệ Năng, đồng thời lấy ra y bát mà các Tổ sư đã truyền thừa các đời, rồi giao lại cho Huệ Năng và nói: “Từ giờ con chính là Lục tổ Thiền Tông, mong con giữ vững Phật Pháp chính niệm, cứu giúp chúng sinh, hoằng dương Phật Pháp”.
Thiên Hà biên tập
Nguồn: soundofhope.org