Hán tự sau khi giản thể và sự biến dị trong văn hóa truyền thống
Văn hóa truyền thống Trung Hoa là văn hóa Thần truyền, người ta biết đến chữ Hán là một loại chữ tượng hình, đằng sau mỗi chữ là một câu chuyện nhân sinh đầy ý nghĩa. Biểu cảm, sâu sắc là vậy, bởi đó là loại chữ viết không phải do con người tự mình sáng tạo ra, mà chính là được Thần truyền tới nhân gian. Tuy nhiên ngày nay, ĐCSTQ đã cải cách chữ Hán chính thống (phồn thể), chuyển thành chữ Hán giản thể.
Trong cuốn “ĐCSTQ giản hóa Hán tự – Chủ nhập bạo lực căn nguyên”, tác giả đã sử dụng một vài ví dụ để giới thiệu ngắn gọn một số ký tự chữ Hán sau khi giản thể mang màu sắc bạo lực. Chúng tôi sẽ đưa ra một số ví dụ, để xem xem Trung Cộng đã biến dị nội hàm văn hóa như thế nào?
1. Chữ 陰陽 » 阴阳 (chữ Âm – Dương)
Chúng ta trước hết xét về hai chữ “陰陽” (Âm – Dương), học thuyết Đạo gia nhìn nhận rằng, thái cực sinh ra hai khí cụ (chỉ âm và dương), hai khí cụ sinh ra “tứ tượng, bát quái”. Thuyết âm dương xuyên suốt mọi tầng lớp trong xã hội, và văn hóa truyền thống Trung Quốc cũng mang đậm màu sắc âm dương. Thời cổ đại coi Trời là Dương, Đất là âm, trên là dương, dưới là âm, bên trái là dương, bên phải là âm. Mối quan hệ của âm dương là mối quan hệ tương sinh tương khắc, trong dương có âm, trong âm có dương, hình thành một thể. Âm dương cân bằng, mới có thể sản sinh ra sinh cơ vạn vật.
Chữ dương khắc trên kim văn bên trái có nghĩa là đồi núi, bên phải biểu thị trên trời nhiều mây, không có ánh sáng mặt trời, ý nghĩa rằng sườn đồi ẩm ướt ở sườn núi phía bắc không hướng về phía mặt trời. Chữ âm khắc trên kim văn bên trái có nghĩa là cũng biểu thị đồi núi, bên phải biểu thị ánh sáng mặt trời, có nghĩa là sườn đối hướng về phía mặt trời ở phía Nam của ngọn núi. Âm và dương đối ứng với hai mặt Bắc Nam của ngọn núi, ở trên cùng một ngọn núi, hợp thành một thể, cùng tồn tại và thịnh vượng, không ngừng phát triển.
Từ Âm, Dương (阴阳) sau khi giản thể, phía bên phải của đồi núi biến thành mặt trăng và mặt trời (月,日). Mặt trăng và mặt trời không chỉ đối lập nhau, mà còn cách ra nhau, không thống nhất thành một thể, không có sự cân bằng âm dương, mất đi sức sống sinh cơ vạn vật.
Âm dương biến dị, không chỉ thiên tai nhân họa liên tiếp xuất hiện, mà ngay cả biểu hiện của nam nữ thế gian cũng chịu sự ảnh hướng, nam giới thiếu đi khí chất của nam tính, nữ giới ngược lại, tỏ ra cứng rắn, sắc sảo.
2. Chữ 壞 » 坏 ( chữ Hoại)
Từ “Hoại” 「壞」chính thể, ý nghĩa là “đổ nát thê lương”. Cũng chính là nói, đạo đức con người bại hoại, cũng giống như chữ “hoại”, tầng lớp đất bên ngoài bèn chia năm xẻ bảy, nhưng bản chất của đất, tức là niềm tin vào Thần sẽ không thay đổi. Theo truyền thuyết ” Thần Nữ Oa tạo ra con người”, Chúa tạo ra con người bằng đất sét nên một cá nhân phổ thông không thể thay đổi năng lực của Thần. Ngày xưa cũng có người xấu, có người bề ngoài hành vi rất bại hoại, nhưng họ vẫn có tín ngưỡng đối với Thần, bởi vậy mối liên hệ giữa người và Thần cũng không thể cắt đứt.
Từ “Hoại” sau khi Trung Cộng giản thể thành「坏」, thì là 「不土」, có nghĩa là không đất, dạy mọi người không thừa nhận bản thân là Thần tạo ra. Cổ đại Trung Quốc có học thuyết ngũ hành cho rằng, “thổ chủ tín”. Chữ “hoại” giản thể, tức “không có đất”, “không có tín”, thêm vào đó là hình thái ý thức vô thần luận của cộng sản, khiến con người không tin Thần, thậm chí dám lăng mạ một cách ngỗ ngược đối với Thần. Mặc dù Thần Phật là từ bi, muốn cứu vãn con người, nhưng hành vi của con người đã bại hoại và biến dị đến mức Thần linh không thể cứu rỗi. Đây chính là mục đích thực sự của TC khiến con người trở nên bại hoại.
3. Chữ 師 » 师 (chữ Sư)
Trong “Giáp Cốt Văn”, bên trái chữ Sư tượng trưng cho binh phù (phù tiết để điều binh khiển tướng xưa) , bất kể triều đình và quân đội nào cũng đều lấy binh phù làm tín vật, binh phù hai bên có thể nhất trí với nhau hay không, để kiểm tra tính xác thực của sức mạnh quân sự. Bên trái là binh phù, bên phải là hình trang trí giống như khăn quàng cổ trên áo giáp đội đầu của nguyên sư. Và chữ 師 “Sư” khắc trên kim văn là một người hai tay cầm thanh kiếm, thêm một lá cờ, biểu thị chức quan cao nhất.
Bên phải của chữ 師 “Sư” so với bên trái của chữ 帥 “Sư” thêm một nét ngang, điều này có biểu thị rằng, địa vị của “Sư” có thể cao hơn so với người chỉ huy cao nhất trong quân đội. Trong “Thượng Thư Chính Nghĩa”, tập 11, “Thái Thệ” có ghi chép lại: Người cai quản bách tính được gọi là “quân”, người giáo hóa muôn dân. Ở các vương triều sau này, Sư cũng có thể làm thầy của quân vương. Thời xưa lập quân, mục đích của việc lập sư chính là thuận theo Thiên ý, trợ giúp Trời yêu thương bách tính thiên hạ, là để bảo vệ tài sản của nhân dân không bị tước đoạt.
Chữ “Sư” sau khi giản thể thành 师, liền thiếu đi tính xác thực trong binh phù, mất đi chứng cứ tín vật. Bản thân Trung Cộng tôn sùng thuyết vô thần, dung túng và làm đơn giản hóa chữ “Sư”, đã làm mất đi nội hàm “trợ giúp Trời yêu thương muôn dân thiên hạ”. Hiện nay có rất nhiều bản tin ở Trung Quốc đại lục đã phơi bày tình trạng hỗn loạn ở trường học, xuất hiện cảnh giáo viên lạm dụng quan hệ tình dục, ức hiếp học sinh,… Những tình trạng này xảy ra ở các trường tiểu học, THCS, Đại Học, thậm chí còn xảy ra ở các trường mẫu giáo.
4. Chữ 綱 » 纲 (chữ Cương)
Trung Quốc cổ đại có thuyết “tam cương ngũ luân”. Tam cương: Tức quân là “quân thần cương, phụ tử cương, phu thê cương”. Ngũ luân tức: “Cha con có tình thân, vua tôi có nghĩa, chồng vợ có sự phân biệt, người lớn người nhỏ có thứ tự, bằng hữu có lòng tin”.
Chữ cương 綱 trong Khải thư, bên trái là sợi dây lớn đề “võng cổ”, có một sợi dây lớn, võng cổ sẽ không bị rối, có thể hiểu ngầm là rành mạch phân minh, phía bên phải giống như một chiếc lưới đánh cá, mở ra (một chìa khóa có thể được sử dụng để mở mạng và các chi tiết được tự tổ chức nếu bạn tuân theo các yếu tố cần thiết của nó) , cơ sở lý luận (buộc các sợi tơ tằm để khiến nó không bị rối, được gọi là kỉ luật), như “kỉ cương” đối với chuẩn tắc hành vi.
Trong “Mao Thi Chính Nghĩa” tập 16 có viết “Miễn miễn ngã vương, cương kỉ cương tứ phương”, ca ngợi vua Chu Văn về sự siêng năng, thiện lương và đạo đức, ông là người giỏi cai quản thiên hạ. Ở đây, “Cương” được dùng như một ẩn dụ chỉ vua Văn là đại cương về khả năng chính trị và điều hành đất nước bằng pháp luật. Ở đây ta dùng ẩn dụ mở lưới đánh cá, câu được cá lớn, bỏ sót cá nhỏ, nói cách khác, Văn Vương có pháp trị rất lớn trong việc điều hành đất nước, vừa có thể trừng trị kẻ gian ác phạm tội nặng vừa ân xá những người phạm tội nhẹ.
Chữ cương sau khi giản thể thành 纲, thắt nút bên trái trở thành một đoạn, lưới ở bên phải thưa và có chỗ “lậu” (rò rỉ), ý tứ rằng kẻ thực sự phạm tội có thể trốn thoát, nhưng những người vô tội lại chịu xử oan. Việc đưa ra các vụ án oan đã trở thành trạng thái bình thường dưới sự thống trị của ĐCSTQ.
5. Chữ 倫 » 伦 (chữ Luân)
Chữ Luân 倫 chính thể, phía bên trái là “nhân”, phía bên phải là “侖” “luân”, trước khi nghệ thuật làm giấy xuất hiện, người xưa viết các kí tự trên các nan tre, sau đó sắp xếp các nan tre lần lượt theo thứ tự, các nan tre được nối bằng một sợi dây da bò đã được nấu chín. 侖 biểu thị sự trình tự, thứ tự, có tổ chức, đồng thời hàm chứa một ý nghĩa là “viên dung, hòa hợp”.
Theo “Thuyết Văn giải tự”, “侖” bao hàm ý nghĩa của “Đạo, Lý”, và mọi người hòa thuận theo một trật tự và nguyên tắc nhất định. Nếu mọi người làm đúng nghĩa vụ của mình ở vị trí tương ứng của họ, họ sẽ có thể dung hòa đạo nghĩa, vô hình chung đạt được Âm Dương cân bằng, nhỏ là từ gia đình, lớn hơn là tới xã hội, người người có lễ tiết, chung sống hòa thuận.
Theo “Mạnh Tử – Đằng Văn Công Thượng” có thuyết: “Cha con có tình thân, vua tôi có nghĩa, chồng vợ có sự phân biệt, người lớn người nhỏ có thứ tự, bằng hữu có lòng tin”‘. Người xưa nhấn mạnh lòng trung thành của hoàng đế và các quan đại thần, thứ tự của người lớn tuổi và con cái, và lòng hiếu thảo của cha và con trai. Đây là năm mối quan hệ của con người trong xã hội truyền thống Trung Quốc.
Năm luân “侖” tương ứng với ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ, và năm đức là: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, tương hỗ lẫn nhau, duy trì vững chắc mối quan hệ giữa các cá nhân và ngăn cản nền tảng đạo đức cơ bản khỏi sụp đổ. Trên cơ sở đó, mọi tầng lớp xã hội đều hoạt động có trật tự, vì xã hội thịnh vượng và ổn định, bảo đảm hạnh phúc của mỗi cá nhân.
Chữ “侖” sau khi giản thể thành 伦, thay hình tượng cuốn sách「册」thành hình tượng dao găm 「匕」,chúng ta đã thấy quan hệ giữa người với người hiện nay, không chỉ căng thẳng, cảnh giác với nhau mọi lúc mọi nơi, mà đã đến mức độ “dùng dao găm” với nhau. Ví dụ như nói, những bi kịch giữa quan hệ giữa con người với nhau được báo cáo trong thời sự bây giờ là rất nhiều và đáng sợ. Chữ “伦” giản thể truyền tải nội dung bạo lực và nguy hiểm. Các phong trào cộng sản trước đây của ĐCSTQ đã khơi dậy lòng thù hận giữa mọi người, khiến vợ chồng trở mặt với nhau. Cha, con, mẹ và con gái đã vạch mặt nhau, anh chị em bất hòa, và gây ra nhiều bi kịch cho con người.
6. Chữ 義» 义 ( Chữ Nghĩa)
Chữ Nghĩa 義 trong Khải thư, gồm chữ “我” và chữ “羊”, biểu thị uy nghi của bản thân. Trong “Thanh Đồng Minh Văn”, ý nghĩa của uy nghi và minh đức là tương đồng với nhau, đều là ý nghĩa của tuân theo đạo đức, đạo đức bên trong có thể quyết định dung mạo và hành vi bên ngoài. Bởi vậy mà từ xa xưa, việc tu dưỡng uy nghi được coi là một khía cạnh của tu dưỡng đạo đức.
Sau khi chữ “Nghĩa” bị giản thể hóa thành 义 , cũng giống như “cắt lúa mạch”, chỉ biết tìm lợi ích của cá nhân, nhưng suy cho cùng chỉ có thể lấy được một chút lợi ích nhỏ nhoi mà thôi.
7. Chữ 親» 亲 (chữ Thân)
Chữ 親 “Thân” chính thể, nghĩa gốc là “Chí”, tức là khi đi đến một nơi nào đó thì gọi là “chí”, thái độ chân thành và chân thành cũng gọi là “chí”. Bên phải chữ “親 ” là chữ “kiến” (tức gặp mặt), lộ ra một vòng eo cong cong, giống như một hình người đang chào. Cha mẹ và con cái, họ hàng dòng tộc, chân thành và nhã nhặn, là họ hàng. Cha mẹ và con cái, họ hàng, bạn bè có thể thường xuyên gặp gỡ, thăm hỏi nhau, khi gặp mặt phải lịch sự, nhã nhặn.
Chữ “Thân” khi giản thể thành 亲, không có chữ “kiến” nữa, lại càng không có thời gian “tương kiến”, tức mọi người không có thời gian gặp mặt, không có lễ tiết cần chuẩn bị. Đã không gặp mặt nhau, làm sao có thể “chí” được đây? Chứ đừng nói đến tình cảm chân thành…
Nguồn: Epochtimes
Lan Hòa biên tập