Tam Tự Kinh: Vì sao nói học Hiếu trước, học chữ sau?
Nhiều người Việt Nam đã thuộc nằm lòng câu nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Đây cũng chính là câu mở đầu của bộ sách giáo dục trẻ em truyền thống “Tam tự kinh”, từng được ngợi ca và sử dụng rộng rãi ở các nước Á Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
“Tam tự kinh” chỉ có trên 1000 chữ nhưng bao trùm cả văn học, lịch sử, triết học, thiên văn, địa lý, luân thường đạo lý. Sách thích hợp với trẻ nhỏ nhờ hình thức thơ 3 chữ ngắn, đơn giản, có thể hát như đồng dao nghe rất vui tai.
“Hiếu để trước, rồi học văn.
Biết toán số, biết văn chương.
Một đến mười, mười đến trăm.
Trăm đến ngàn, ngàn đến vạn”
Làm người thì điều tối quan trọng trước tiên là phải học đạo lý hiếu thuận với cha mẹ, yêu thương anh chị em như thế nào. Sau đó mới bắt đầu học các tri thức trong đời sống thường nhật.
Những kiến thức thông thường trong cuộc sống bao gồm cả khả năng hiểu được sự thay đổi các con số và cách tính toán, ngoài ra còn có khả năng đọc hiểu các chữ viết, văn chương.
Trung Quốc (và cả nước ta) áp dụng phương pháp tính toán thập phân. 1 là con số bắt đầu, 1 cho đến 10 là những con số cơ bản, tiếp sau là theo quy tắc nhân 10, 10 lần 10 là 100, 10 lần 100 là 1.000, 10 lần 1.000 là 1 vạn (tức 10.000). Như vậy cứ thế nhân lên vô cùng vô tận.
Câu chuyện về vua Thuấn
Theo câu chuyện truyền thuyết thời thượng cổ, Thuấn là một người vô cùng hiếu thuận. Cha của Thuấn bị mù, tên là Cổ Tẩu, mẹ của Thuấn qua đời từ khi Thuấn còn nhỏ. Sau đó, cha Thuấn lấy thêm một người vợ, chính là mẹ kế của Thuấn, tính tình của mẹ kế rất bất hảo, đối với Thuấn không những không thương yêu còn gây khó khăn đủ đường.
Không lâu sau, mẹ kế sinh được một người con trai và đặt tên là Tượng, cha và mẹ kế hết mực yêu chiều Tượng. Mặc dù thường ngày Thuấn rất hiếu thuận với cha mẹ, yêu thương em trai, nhưng mẹ kế và em trai lại rất ghét Thuấn, còn cha Thuấn thì chỉ biết nghe theo phía hai mẹ con Tượng, không phân biệt đúng sai mà thường đánh mắng Thuấn.
Do sức khỏe của cha không tốt, lại thêm em trai còn nhỏ tuổi, cho nên khi Thuấn còn rất nhỏ đã làm ruộng một mình ở dưới chân núi Lịch Sơn để nuôi sống cả nhà. Theo truyền thuyết, vì tâm hiếu thảo của Thuấn làm cảm động Trời cao, nên ngay cả voi cũng đến giúp Thuấn làm ruộng, chim bay đến giúp nhổ cỏ.
Dù vậy nhưng cha, mẹ kế và em trai vẫn không thích Thuấn, thường tìm cơ hội hãm hại ông, có ba lần suýt chút nữa là Thuấn đã mất mạng.
Thuấn cũng biết rõ cảnh ngộ của mình nên luôn luôn cẩn thận, do đó ông luôn nghĩ được cách tránh khỏi những lần hãm hại của họ, và cũng không để bụng chút nào.
Ông không có chút oán hận nào về những chuyện xảy đến với mình, lặng lẽ chịu đựng những đối đãi bất công, ngược lại ông còn luôn nghĩ mọi cách để an ủi cha mẹ và làm cho họ vui vẻ. Bởi vì đức hạnh của Thuấn thực sự đáng quý, cho nên khi ông mới 20 tuổi mà thanh danh đại hiếu đã lan xa.
Về sau, khi vua Nghiêu hiền minh tìm người tài đức để kế vị, mọi người liên tiếp tiến cử Thuấn. Mặc dù vua Nghiêu nhận được lời tiến cử của chư hầu khắp nơi, nhưng vì thiên hạ bách tính, nên ông vẫn muốn đích thân thử thách Thuấn.
Thế là vua Nghiêu bèn gả hai người con gái Nga Hoàng và Nữ Anh cho Thuấn; lại còn để cho Thuấn qua lại tiếp xúc với chín người con trai của ông, đứng bên ngoài quan sát xem Thuấn đối đãi với vợ và chín người anh em hoàng gia ra sao, chính là khảo nghiệm về “Đễ” “悌”, về đức thuận thảo với anh em trong nhà.
Ngoài ra, vua Nghiêu còn để Thuấn lấy mỹ đức hiếu đễ dạy bảo cho bách tính, mọi người dân đều nghe theo mà không làm trái; Thuấn xử lý tất cả chính vụ đều vô cùng thỏa đáng, các quan đều phục tùng; vua Nghiêu lại ra lệnh cho Thuấn tiếp đãi chư hầu bốn phương đến triều đình diện kiến, các chư hầu đều cung kính nghe theo Thuấn.
Cuối cùng, vua Nghiêu sai Thuấn bảo vệ rừng núi, mặc dù trong rừng núi Thuấn gặp phải mưa to gió lớn nhưng vẫn có thể phân rõ phương hướng, không bị lạc đường.
Cuối cùng, vua Nghiêu thấy được Thuấn là người có đức hạnh cao thượng và trí tuệ phi phàm, liền nhường ngôi vua lại cho Thuấn.
Đạo hiếu của ông là ‘dĩ đức báo oán’, vô tư vô hối (không vì mình không hối hận), đã thể hiện được đức đại hiếu. Cha mẹ yêu ta, nói hiếu kính cũng không khó, nhưng cha mẹ chán ghét ta, ngược đãi ta, thậm chí hại mệnh ta, hay như đối đãi với người mẹ kế không có quan hệ máu mủ, mà vẫn không mang ý đối địch, chí khí cao như thế, chính là để lưu lại cho dân tộc Trung Hoa phong phạm của bậc quân tử và truyền thống lấy hiếu trị quốc.
Vì vậy, câu chuyện về vua Thuấn thời thượng cổ ở trên đây, cho thấy đạo lý làm người mà Nho gia giảng, đạo lý ‘trì gia trị quốc’ (tề gia trị quốc), đạo lý ‘dĩ hiếu trị quốc’ (lấy hiếu trị quốc), đều xuất phát từ sự hướng dẫn và giáo hóa của các bậc thánh vương thời thượng cổ, chứ không phải bản thân Nho gia bỗng nhiên mà có.
Hơn nữa kính trọng người trên thế nào, đối đãi người dưới ra sao, đã nói rất rõ ràng, rất toàn diện, đối đãi bất công thì dĩ đức báo oán, đối đãi với em mình thì hết lòng chăm sóc. Điều được nhấn mạnh ở đây là ý chí và trách nhiệm vô tư to lớn, chứ không phải thứ tình riêng hẹp hòi ‘người tốt với ta, thì ta mới tốt với người’.
Đối với con cái mà nói, khác với bài học trước chủ yếu nhấn mạnh kính ý và cảm ân của con, em đối với cha mẹ và anh chị, bài học này lại là câu chuyện mẫu mực và đáng tham khảo về cách làm người anh, người chị.
Nguồn: Chánh Kiến Net
Chân Nhiên biên tập