Ngộ Không đã phải tìm đến vài “cao thủ” để nhờ cứu cây nhân sâm song tất cả đều không giúp được. Cuối cùng, đệ tử của Đường Tăng phải tìm đến Bồ Tát.
Trong cố sự ‘hái trộm nhân sâm quả’ ấy, Tôn Ngộ Không đã phải vất vả đi khắp núi bể non cao, gặp biết bao vị đại tiên để hỏi cách cứu sống cây nhân sâm. Nhưng chỉ đến khi diện kiến đức Quan Âm Bồ Tát thì mới tìm được câu trả lời.
1. Nhân sâm là linh căn của trời đất…
“Giống cây này ba nghìn năm mới nở hoa, ba nghìn năm mới kết quả, lại ba nghìn năm nữa mới chín. Tính ra phải một vạn (10.000) năm mới được ăn. Và trong một vạn năm ấy chỉ kết được ba mươi quả. Hình dáng quả này tựa như trẻ mới sinh chưa đầy ba ngày, tứ chi hoàn toàn, ngũ quan đủ cả”.
Lại nói:
“Người nào có phúc được ngửi quả ấy một lần, sẽ sống được ba trăm sáu mươi tuổi; ăn một quả, sống mãi bốn vạn bảy nghìn (47.000) năm”.
2. Tôn Ngộ Không đi khắp non cao tìm thuốc
Khi bốn thầy trò bước vào Ngũ Trang quán, hai tiểu đồng của Trấn Nguyên Tử đã vâng lời dặn dò, mang hai trái nhân sâm tới mời Đường Tăng. Nhưng vì loại quả này trông tựa đứa trẻ mới sinh nên Đường Tăng nhất mực khước từ.
Hai tiểu đồng không còn cách nào khác đành quay về phòng và chia nhau mỗi người một quả. Bí mật này chẳng may lọt vào tai Trư Bát Giới, động tới bản tính háu ăn của “lão Trư”.
Bát Giới bèn xúi giục Ngộ Không hái trộm nhân sâm cho biết mùi biết vị.
Tuy nhiên việc Ngộ Không hái trộm nhân sâm đã bị hai vị tiên đồng phát giác. Họ đã mắng nhiếc thầy trò Đường Tăng không ra gì khiến Ngộ Không nổi giận. Nửa đêm hôm đó, Ngộ Không đã ra tay quật đổ cây quý trong vườn của Trấn Nguyên đại tiên.
Hành động này của Tôn Ngộ Không đã khiến cho Trấn Nguyên đại tiên vô cùng tức giận. Ông liền hạ lệnh cho người bắt trói bốn thầy trò Đường Tăng lại và muốn trừng phạt Đường Tăng.
Không còn cách nào khác, Tôn Ngộ Không đành phải vội đến chốn Bồng Lai tiên cảnh tìm ba vị tam tinh Phúc Lộc Thọ, đến Phương trượng tiên sơn tìm Đế Quân rồi đến tận Doanh Châu hải đảo tìm cửu tiên để cầu cứu nhưng lần nào cũng bị từ chối vì chẳng ai có thể giúp.
Tất cả đều nói rằng cây nhân sâm là cây tiên, lại thuộc sở hữu của Trấn Nguyên Tử, họ không có cách nào giúp được.
3. Nước Cam Lồ, Bồ Tát cứu cây
Cuối cùng, Tôn Ngộ Không đành phải đi tìm gặp Bồ Tát, cầu xin người giúp mình một phen.
Ngộ Không đến núi Phổ Đà cầu cứu Quan Âm Bồ Tát. Vừa nghe Ngộ Không kể rõ sự tình, Bồ Tát đã quở trách:
“Ngươi là con khỉ không biết hay dở! (…) Trấn Nguyên Tử là tổ sư các địa tiên, ta cũng phải nhượng bộ ba phần, sao ngươi dám đánh đổ cây của người?”
Có một điều đặc biệt là Quan Âm Bồ Tát nói rằng, so với Trấn Nguyên tiên thì Bồ Tát “cũng phải nhượng bộ ba phần” [1]. Nếu đúng như lời nói, thì phải chăng Bồ Tát sẽ không thể cứu sống cây Nhân sâm?
Thế nhưng Ngài lại quả quyết với Ngộ Không rằng: “Nước Cam Lồ trong tịnh bình của ta chữa được cây tiên”. Và quả thực, khi đứng trước cây nhân sâm đất bật rễ trơ, cành khô lá rụng, Bồ Tát đã dùng cành dương liễu và nước Cam Lồ để hồi sinh cây Nhân sâm, khiến cành lá lại xanh tươi, hai mươi ba quả lại được phục hồi nguyên trạng.
Như vậy, Ngộ Không đi khắp mọi nẻo phương trời, đã tìm đến các bậc đạo tiên nơi núi cao biển cả, nhưng chỉ duy nhất nước Cam Lồ của Quan Âm Bồ Tát mới có thể hồi sinh cây thần. Vậy điều gì giúp nước Cam Lồ làm nên kỳ tích ấy?
4. Dòng nước Cam Lồ
Trước hết, hãy nhắc lại lời Bồ Tát nói với Tôn Ngộ Không: “Trấn Nguyên Tử là tổ sư các địa tiên, ta cũng phải nhượng bộ ba phần…”[1]. Có phải ý nói rằng tầng thứ của Quan Âm Bồ Tát là thấp hơn Trấn Nguyên tổ địa tiên hay không?
Sự thực thì không phải vậy. Quan Âm Bồ Tát thuộc về Phật giới, còn Trấn Nguyên Tử là Tiên giới, là bậc Chân Nhân thuộc về Đạo gia. Phật và Đạo là hai trường phái tu luyện, là hai thể hệ hoàn toàn khác nhau, vậy nên ở đây không so tài cao thấp. Câu nói của Bồ Tát chỉ là lời trách mắng Ngộ Không khi dám mạo phạm đến Trấn Nguyên đại tiên.
Nhưng có một điểm, Đạo gia chú trọng thanh tu, tu luyện trong tĩnh, và thường là tu đơn độc, hướng đến giải thoát tự thân. Còn Phật gia chú trọng tu Thiện, vì tu Thiện nên họ có thể xuất tâm từ bi, không chỉ cứu độ bản thân mà còn phát tâm Bồ Đề phổ độ chúng sinh.
Ở đây cũng cần nhấn mạnh rằng, trong “Tây Phương Tam Thánh” thì Quan Âm Bồ Tát là hiện thân cho lòng Từ Bi của chư Phật [2]. Bởi vậy, nước Cam Lồ của Bồ Tát là sinh xuất từ tâm từ bi, nên hiển nhiên sẽ khác với “viên đan lúa mạch” của ba vị tiên chốn Bồng Lai, cũng khác với “cửu chuyển Thái Ất linh đơn” của Đế Quân – vốn là linh dược của những người tu Đạo.
Nói về nguồn gốc của nước Cam Lồ, có một truyền thuyết kể rằng: Khi Bồ Tát vẫn đang tu luyện giữa thế gian, Ngài đã phải trải qua biết bao nhiêu ma nạn, đã nếm đủ mọi cái khổ trong những cái khổ của người đời.
Một ngày, Phật Tổ hiển linh trao cho Ngài chiếc bình Bạch Ngọc Dương Chi, dặn rằng con cần tu tới khi trong bình nở hoa, gọi là Cam Lộ Dương Chi, lúc đó mới thực sự thành chánh quả, phép thuật vô biên.
Chúng ta biết rằng nước Cam Lồ ấy phải được đựng trong bình ngọc thanh tịnh và phải dùng cành dương liễu thì mới có khả năng rưới mát chúng sinh. Nghĩa là, ở đây phải có sự kết hợp của ba yếu tố:
Nước Cam Lồ (甘露): là thứ nước thánh tinh khiết, rất trong, mát, và thơm ngọt, do hứng ngoài sương mà được – tượng trưng cho lòng từ bi, nghĩa là “Thiện”.
Cành dương liễu (楊柳): là loại cây vừa mềm vừa dẻo, có thể tùy duyên mà không chịu khuất phục, có thể thuận theo ngoại cảnh mà không bị cảnh chi phối. Cành dương liễu mềm dẻo mà lại kiên cường, tượng trưng cho đức nhẫn nhục và chịu đựng, nghĩa là “Nhẫn”.
Bình tịnh thủy (净瓶): là bình ngọc hoàn toàn thanh tịnh chỉ có ở nơi Phật giới, và phải đạt đến độ thánh khiết như bình ngọc thì mới có thể được dùng để đựng nước Cam Lồ. Khi cứu cây Nhân sâm, Bồ Tát cũng nói rằng: “Nước này những vật thuộc ngũ hành không được phạm vào, mà phải lấy bầu ngọc múc nước (…)”. Như vậy, bình tịnh thủy là tượng trưng của “Chân”.
Ví như có Thiện tâm, có mong muốn phổ độ chúng sinh nhưng lại không thể nhẫn nhục, không thể chịu khổ thì làm sao cứu độ được con người? Cũng ví như có đức Nhẫn cự đại, có ý chí kiên cường nhưng bản thân không phát tâm từ bi thì làm sao bước ra độ nhân được? Và ví như đã đầy đủ cả Thiện, cả Nhẫn, nhưng lại không mang tâm thuần tịnh, tâm ý không đủ thuần khiết thì việc cứu người có làm mà chẳng nên công cán gì…
Vậy mới nói, thứ “linh dược” thần thánh nhất là thứ linh dược sinh xuất ra khi hội tụ đầy đủ cả Chân, Thiện và Nhẫn. Chỉ có thiện tâm lớn lao và lòng từ bi cự đại, được gìn giữ trong đức tính chân thật, kinh qua đức nhẫn nhịn trong quá trình tu luyện gian nan, thì mới có thể làm nên những kỳ tích thần kỳ.
—
Chú thích:
[1] Trong nguyên tác “Tây Du Ký” của Ngô Thừa Ân, cụm từ này là “我也讓他三分”, nghĩa là “ta cũng phải nhượng bộ ông ấy ba phần”.
[2] “Tây Phương Tam Thánh” bao gồm Phật A Di Đà, Đại Thế Chí Bồ Tát, và Quan Âm Bồ Tát, trong đó Bồ Tát Đại Thế Chí tượng trưng cho Trí Huệ, còn Bồ Tát Quan Âm tượng trưng cho Từ Bi của Đức Phật. Trong tranh vẽ “Tây Phương Tam Thánh” thì Bồ Tát Ðại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh đứng bên tay phải Ðức Phật A Di Ðà, bên tay trái là Bồ Tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy.
Đăng Dũng biên tập
Nguồn: dkn